Thứ Năm, 1 tháng 10, 2015

chuyện ở xứ xa

Thực sự những lý thuyết mà người ta dạy cho sinh viên ở trường chẳng bao giờ là đủ. Lý thuyết, hay chỉ là một cách lý giải và thuyết minh, rõ ràng phụ thuộc vào mục đích và ý đồ cùa người lên tiếng. Vì vậy, không lạ gì khi ngoài thực tế, sự vật thật, con người thật và sự kiện thật khiến ta bỡ ngỡ.

Văn hóa là thứ hiện thực, nhưng lại dễ dàng đánh lừa kẻ nào không muốn biết. Đâu nào có ai, chưa từng có ai nói với tôi về những người thượng trên cao nguyên Di Linh này. Chỉ có những thứ có giá trị, thu được lợi nhuận tối đa và tiềm năng khai thác rộng lớn mới được chào đón trong sách vở. Vì vậy trên con đường về tới Fi-nôm, D'ran, Trạm Hành, Phát Chỉ, Cầu Đất, Trại Mát và xa xôi hơn cả là Đạ Nghịt, những gì tôi đã thấy là những gì khác lạ nhất. Đấy mới là đời sống. Những khuôn mặt xa xôi và khó hiểu, cách suy nghĩ, ăn nói và cách thức tạo dưng cuộc sống, gắn bó liêu hết với nhau, len lỏi giữa đôi tay cần lao giữ gìn sức sinh tồn mãnh liệt.

Từ từng đoạn đường đất đến những mảnh ruộng trồng rau màu, hoa kiểng đủ các sắc thái màu sắc khác nhau đều là sản phẩm của bàn tay lao động. Trong cái trạng thái cài răng lược vào giữa núi, giữa rừng, thôn xóm ở khắp xứ cao nguyên này chơi trò trốn tìm với người từ xa đến. Nơi dốc đèo, tôi thấy nhà cửa ruộng vừa đấy, nhưng chỉ cần xuống sâu hoặc leo cao một đoạn, lại chỉ có rừng cây và sườn đất đá trơ trọi im lìm. Con người len lỏi vào bất cứ mảnh đất nào để sống. Vùng dốc thì cào thành từng bậc thang, xắn đất mà trồng rau, trồng cà phê, trồng trà hoặc hoa, thu lại giá trị kinh tế cao.

Nhưng giá trị kinh tế cao, phục vụ công nghiệp chế biến, làm mặt hàng xuất khẩu hay đặc sản địa phương gì đó, cũng chỉ là cách nhìn của phường con buôn, của những người thu được nhiều đồng lời nhất hay là của các nhà khoa học. Chưa từng có một người dân nào nói với tôi rằng nông sản họ trồng đây giúp cho họ đạt được điều gì lớn lao. Một người thợ lột vỏ dừa, dệt thảm xơ dừa ở Bến Tre một ngày kiếm từng độ hai chục ngàn. Vậy còn nhưng đồng bào dân tộc ít người ở Đạ Nghịt này cả mùa cầu khẩn Thiên Chúa của họ, nương tựa niềm tin và nhà thờ Tin lành xây kiểu mới này, trừ cả vốn lẫn công, bỏ qua điền sản, cuối cùng họ được từng bao? Người phụ nữ có nước da ngăm và mái tóc dường như khô khốc vì bụi các bán tạp hóa ở thôn ấy nói rằng những căn nhà xinh xinh ở phía ngoài thôn là của người Sài Gòn. Người Sài Gòn lặn lội lên miền ngược mua đất đề trồng cà phê? Đó là điều tôi thật sự băn khoăn. Bản thân chị bán tạp phẩm trong thôn ở trong một căn nhà to bằng gỗ. Vách nhà được dựng theo hai chiều nằm và đứng, Từ đất lên độ sáu tấc, ba thanh gỗ dài đặt nằm, làm phần bệ bên dưới cho những thanh gỗ ghép đứng phía trên. Nhà của chị gái xem chừng thuộc cỡ to trong thôn. Có nhiều nhà chỉ có một cửa ra vào cũng một cửa sổ, nhưng nhà của chị có hai của sổ. Một bên cửa sổ đã bị tháo cánh nhằm phục vụ buôn bán. Hàng hóa treo lủ khủ có thể nhìn thấy từ ngoài qua ô vuông đó. Tất cả nhà gỗ ở đây đều chỉ có một tầng trệt còn nhà gạch thì cao hơn. Với sơn nước nhiều màu, ốp gạch hay đá lát, đó có vẻ là nhà của người Sài Gòn theo lời chị chủ quán. Hoặc giả là có những người ở Sài Gòn lên đây đầu tư thật, chịu đựng cái khắc nghiệt của vùng núi mà ở lại (thường nhà đầu tư thuê người quản lí cho tiện hơn), hoặc giả 'người Sài Gòn' chỉ là một cách nói ám chỉ dân ngụ cư đến đây với rất nhiều tiền cùng với cách sống khác lạ, thì điểm chung lại cốt yếu của lời lí giải vẫn nằm ở khối tài sản của người đến v mong muốn đạt được sự sung túc của người vốn ở đây. Những người ở thôn này, chỉ có họ mới có lý do cho việc mong muốn xây được một căn nhà gạch có lầu, ban công và sân lát đá. Tôi không thể nói vì chúng 'xinh' hơn thật chăng, sạch sẽ hơn và tiện nghi hơn chăng. Và điều đó có vẻ như nằm trong khoảng không gian của những thứ không được hỏi.

Bán hàng xong, ch chủ không chờ cho khách đi khỏi đã bước vào trong. Đôi dép của chị chùi bụi đất để lộ ra màu xám của nền xi măng tráng phẳng. Chiếc váy dài đến quá mắt cá chân của chị sột soạt làm bụi tung lên. Một chiếc váy thật dài, may bởi loại vải hoa thông thường và không hề có vẻ gì là kiểu cách. Tôi nhìn thật kĩ cũng chưa thể nhận ra nơi chiếc váy đó có gì tôn lên vẻ đẹp của cơ thể con người. Rõ ràng là nó được may bởi một lối khác, không thuộc về những thứ gọi là thời trang, văn minh thành thị. Tính trang trí của thứ phục trang ấy ắt hẳn cũng đã giảm đi nhiều bởi hoa văn nhuộm công nghiệp và màu sắc phơn phớt theo gu thanh nhã đồng bằng. Không còn một tấc thổ cẩm nào. Nhưng ở một thôn sơn dã, với máy móc đang đào bới ngày đêm, với gạch đá chở ngược về núi, lựa chọn một lối sống cho phù hợp với tốc độ phát triển dồn dập vẫn là chuyện cần quan tâm hơn cả. Chỉ có người già không cần mấy đến tiền, đến nhà cửa mới không hối hả thay đổi như vậy. Làm sao để khi đi đến cuối sườn dốc bên kia của cuộc đời, còn có đất mà nằm, còn có quần áo mặc cho ông bà tổ tiên nhận ra mình quả thật chỉ là việc của người già mà thôi. Bên cạnh bụi đường bốc lên bám dính với đồ đạc, có những người đang chờ đợi một ngày hóa thành bụi mỏng mà bám lại vào đất đai, đồi núi, cây cối và rừng xanh.

Một bà lão trong thước thổ cẩm đen nép bên hàng rào làm bằng dây phơi quần áo nhìn ra con đường bê tông trắng hếu đang bị bụi đất che phủ dần. Con đường bê tông trong thôn ấy còn chưa hoàn tất, những vườn cà phê cây mới ngang bụng người. Giữa núi rừng xanh thẳm, nhà cửa cùng đất đai dường như trơ trọi. Khi chưa có đường, người ta bám vào rừng để sống. Có đường rồi, người ta nương vào xe máy, xe ô tô để gắn kết với thế giới bên ngoài. Xi măng, sắt thép, gạch đá đã bắt đầu được chở lên. Cuộc sống giờ đây vươn lên trên một nền móng khác. Từng viên đá hộc kè vào, từng mét vuông xi măng tráng là từng nỗ lực, từng cố gắng bám trụ. Đôi chân cứ phải tiến tới, đôi tay cứ phải làm. Thay đổi có cái giá của nó, mà rẻ nhất là tính bằng nỗ lực: lớp người đi trước đến lớp người đi sau, cho một tương lai dài lâu.



Hầu hết các thôn, các ấp ở đây đều chỉ có một con đường. Đó là phải đi lên, làm lụng nhiều hơn, xây dựng nhiều hơn nữa và chỉ có một con đường cho xe cộ, người ngựa qua lại. Đó là thứ gì tất yếu thì phải? Một thứ gì đó thuộc về quy luật của lịch sử, của cộng đồng con người. Dù ở miền nam hay miền bắc, cũng chỉ có một lối đi như vậy, một bề nổi cho tất cả mọi thứ. Những cung đường dốc đi qua Trạm Hành, Phát Chỉ, Cầu Đất làm tôi nhớ về những vùng xa xôi được miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Tiếng chim hót trong bụi mận gai. Những vùng mênh mông đó được xây dựng chỉ nhằm một mục đích làm ra tiền của. Để ở, để sống, để hạnh phúc không phải là cái người ta ngắm đến. Sở trà dành cho công nhân trồng trà. Thái Phiên là ấp của các hộ trồng hoa... Người ta gặp gỡ nhau, yêu thương nhau, tạo lập gia đình, bạn bè, bù đắp cho nhau những thiếu hụt về tinh thần là chuyện tất yếu và là chuyện của phút nghỉ ngơi, của buổi đêm hay sau mùa thu hoạch. Như Lỗ Tấn đã viết rồi đấy, trên thế gian ban đầu làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi, con người lúc đầu làm gì có tình, ở bên nhau mãi mới thành người thân. Cũng vẫn chỉ có một lối ấy mà đi.

Và cũng bởi chỉ có một lối để đi đến các thôn ấp ấy, nên kết quả tất yếu và chắc chắn là không ai tìm đường đi vòng thật xa để lên Đà Lạt trong khi có lối gần hơn. Con đường qua đèo Prenn đã không còn hoang sơ như trước nữa. Lối rẽ bên kia, văn minh của thời đại internet đã về tới, nhưng cái ưa chuộng của con người vẫn còn quanh quẩn bên hàng hóa, cà phê và xe tải. Những chuyến đi cứ vượt dốc và xuôi đèo, đếm thời gian trên cao nguyên bằng tháng cùng năm, cứ đi mãi đi mãi mà chẳng để lại gì nhiều. D'ran chín giờ sáng, nắng tràn ngập mọi nơi, có ba người phụ nữa mặc nhiều áo khoác, đội nón đeo khăn che kín mặt đi từ đường xa vào quán cơm chay. Quán cơm này có dấp dáng của một quán cơm bình dân thôi. Dù cho giờ đấy ở Sài Gòn, có hôm tôi còn chưa dậy, thì ba người đàn bà ấy đã vào để ăn trưa và nhà hàng cũng sẵn sàng để phục vụ chu đáo. Tựa như những con người này bắt đầu một ngày từ ba giờ sáng, nên họ rất đúng phép tắc cho bản thân được nghỉ ngơi đôi chút giữa cơn nắng cao nguyên. Có hai người phụ nữ ngồi quay lưng lại với tôi, ngước nhìn qua vai hai cô này, tôi có thể thấy người còn lại khá rõ.

Người đàn bà còn lại bắt đầu gỡ nón và khẩu trang trùm kín mặt. Cô ta chưa quá lớn tuổi, có một khuôn mặt dài, đôi mắt dài và cặp lông mày nhợt nhạt. Mặc dù tóc được chải ngược hết về sau, nhưng vẫn có nhiều sợi ngắn hơn xòa xuống trán, tạo thành một bộ mái lưa thưa. Răng cô này không đẹp, nhưng tóc thì dài dù cho nó có bám bụi. Đấy là điều không thể tránh khỏi rồi. Dáng cô xem ra cao ráo và thon gọn nếu không phải nói rằng hơi gầy, còn hai người đồng hành của cô thì lại không được như thế. Có lẽ bởi cô biết thân hình của bản thân như thế, nên mới thích thú đánh mắt sang bên kia đường mà nhìn chiếc đầm màu đỏ trong tiệm may. Không ai trong quán để ý đến tôi, nên tôi có thể quay mình lại mà xem xét cái tiệm ấy. Có vẻ như nó chiếm một mặt bằng không rộng rãi mấy, được cắt ra để cho thuê. Có một con ma nơ canh đứng sau lớp kính đang vận cái đầm dài thướt tha màu đỏ tươi. Người ta có thể thấy đâu đó cái lối Sài Gòn ở khung cửa kính. Tôi không rõ bên trong cửa tiệm có máy lạnh hay không. Mà có lẽ ở trên cao nguyên này, lắp máy lạnh là điều không cần thiết. Người ta cần đèn hơn, để sưởi ấm cho người y hệt như cho lũ gà con. Trở lại khung cửa kính, tôi xin phép bàn lan man ra một tí. Ở Sài Gòn, không quá lâu đâu, mới rộ lên cái mốt cửa kính cao đụng trần ở các quán cà phê. Và cái lối ấy mốt thật, khi có rất nhiều các quán mới mở học tập lẫn nhau. Nó cho phép người ta nhìn nhiều hơn, từ đường vào và từ trong nhà ra, làm lộ hẳn cái vẻ kiểu cách của thành phố, mà nhìn vào ta không thể không nhớ đến những bức tranh vẽ các xứ New York hay Paris tráng lệ: quý ông, quý bà, nam thanh nữ tú lắc lư, say ngà ngà bên ly rượu hay vại bia, vui vẻ cười đùa rôm rả. Người ta cố tình như vậy đấy, để cửa hàng của mình sang hơn nhà kế bên, để khách của mình vào có cảm giác ở một đẳng cấp cao hơn nhà kế bên.

Tôi cảm thấy thú vị. Không phải chuyện thời trang xoay vòng, mà là việc con người rất hay bị thu hút theo cách giống nhau. Làm sao bạn có thể cho rằng một khung cửa kính ở cái trấn D’ran xa xôi và một ở giữa lòng Sài Gòn lại có cùng tính chất? Nhưng tôi thì hoàn toàn đồng ý điều đó. Có những con người nhanh nhạy, đánh hơi được cái mới. Cũng có những con người kiên định, giữ gìn cái nếp cũ từ trước tới nay. Tuy vậy, thành công hay không chẳng phụ thuộc vào tí tinh ranh ấy. Một khung cửa có khi rất nguy hiểm, khi nó mang trong mình ý nghĩa gợi mở, là điểm tựa, là cái chốn neo vào của hai cán trong chiếc cân. Hai thế giới đối lập nhau, trong và ngoài sẽ bị đem ra đong đếm. Nếu bạn còn nhớ Edward Hopper, ắt bạn phải nhớ những bức tranh của ông ta. Hội không chính thức những người yêu tranh toàn cầu đã không phải bàn cãi thêm gì nữa về sự im lặng trong tranh của nhà họa sĩ: một xã hội không có cái hồn như bề ngoài xa hoa của nó. Và tất cả hầu hết được nhìn qua từng ô cửa!

Dĩ nhiên rằng không một ông bà chủ nào muốn khách của mình suy nghĩ lôi thôi như thế. Người ta chỉ muốn tận dụng cái phong cảnh thành phố lãng mạn mà tạo cảm hứng cho khách thôi. Và gắn kết chặt chẽ vào đấy, phong cảnh thành phố không bao gồm các loại tiểu cảnh sau: người vô gia cư, người ăn xin, người bán hàng rong hay các mợ sồn sồn mặc quần đùi đi chợ… Vậy nên, vẫn có những người đầu tư tìm cho được một căn gác có ban công thoải mái với tầm nhìn thu được kha khá góc đẹp, có đôi cửa sổ thi vị lại hứng được gió trời, chiếm sẵn thế đắc địa trong bản đồ văn hóa, kiến trúc và lịch sử để mở hàng quán. Và các ông bà chủ vào loại này có thể đôi phút giây nào đó, tự sung sướng rằng mình có đầu óc hơn đám người vẫn cần chường mặt ra đường cho thiên hạ ngó vào, lại dựng cửa kính để đến cái toilet cũng bị trông thấy.

Và những gì bên trong quán cà phê có khung kính cao rất dễ bị nhìn thấy theo đúng cái cách người đàn bà ở trấn D’ran nhìn cái đầm màu đỏ. Từ lúc không còn che kín khuôn mặt cho đến khi tôi nghe cô cất tiếng là một quãng thời gian đủ dài cho một người ngắm nghe kĩ lưỡng cái họ thích. Mắt cô nhìn đăm đăm, cổ dường như cứng đơ không chuyển động và cái miệng thì đang mấp máy nói gì đó trong vô thức. Đến chừng như kết luận được rồi, cô ấy bảo với hai người còn lại rằng cái đầm đó thật đẹp, cái đầm màu đỏ nhìn sang. Một loạt ý kiến gì sau đó mà tôi nghe không tường cho lắm, nhưng chắc chắn có hai chữ ‘dạ hội’ đã bật ra. Tôi phải nhìn cô này thêm lần nữa, thật chậm và nếu có thể nhìn được cả hai người kia, tôi cũng sẽ làm như thế.

Tôi không còn quá lạ lẫm với việc người ta có rất nhiều đất, trồng trên đấy đầy gỗ quý, cà phê, trà hay ca cao. Số tiền thu được khi mùa màng tốt đẹp không phải là ít. Dù cho mất mùa là chuyện tệ hại, nó như việc niêu cơm đang chín bị dính bùn, thì cũng đừng quên rằng người thành phố bình thường không mấy ai thấy được của cải theo đúng nghĩa đen của câu ‘rừng vàng biển bạc’. Tuy phút ấy tôi còn ngồi chung với ba người phụ nữ kia, nhưng những con số mà họ nghĩ tới đã bay lên tận cung trăng rồi. Và đi chung với những con số ấy trên chiếc phi thuyền ắt hẳn phải có hai chữ ‘dạ hội’. Tôi lại chưa từng hiểu được chính xác nghĩa cái từ ấy nói đến. Nó chỉ nhắc nhớ tôi vài kỉ niệm đã thật lâu rồi. Ngày tôi còn bé, mẹ tôi vẫn ngồi may bên cái máy khâu đạp chân nghe lọc cọc suốt trưa chủ nhật, trong khi trên truyền hình người ta phát chương trình thời trang có cô giới thiệu là diễn viên kèm ca sĩ gì đấy. Giọng cô này thì đều đều, giống như buổi trưa vậy. Một cách nhàm chán tôi đưa mắt lên cái máy vuông và đen, vờ như mình quan tâm lắm để tránh khỏi phải ngủ. Người ta giới thiệu hết hiệu này đến hiệu kia, các loại quần áo mũ nón may sẵn, thích hợp cho người đi làm, thiếu nữ, bà nội trợ, cho quý ông và dĩ nhiên là cả loại trang phục dạ hội. Tôi chỉ còn nhớ được cảnh quay giữa một khu vườn biệt thự nào đó, các cô mặc từng cái đầm như từng cục màu trong hũ trút ra và đi qua đi lại, đánh một vòng trước khán giả rồi biến mất. Thực tình tôi không thể nhớ gì hơn, ví dụ như tại sao tôi lại nghĩ đó là ‘cục màu trong hũ trút ra’? Có lẽ vì nó vàng là vàng còn đỏ là đỏ. Những chiếc áo dài đâu tiên tôi thấy đẹp là áo của bà nội và bà ngoại tôi. Một lớp nhung huyền sẫm tối mà lại ánh lên nhiều màu trông thích mắt. Đó là cái áo của bà nội. Một lớp vải sờ vào có vẻ sần nhưng mỏng và nhẹ và nhuộm màu xanh rêu man mát. Tôi thấy bà ngoại cắt tóc ngắn, những sợi bạc ánh lên như kim loại, môi đỏ tươi vì ăn trầu và mặc chiếc áo đấy cùng với quần thâm đen. Trầm lắng hay vui vẻ, tôi đều thích cả. Nhưng dù rằng quy củ hay nổi loạn, một cái áo không phải là cục màu trút ra từ hũ được.

Tận bây giờ, tôi vẫn không biết dạ hội là cái gì trên đời này. Có phải là một khu vườn có các cô các bà vừa ăn uống vừa đi lại trong những đầm lướt thướt như chương trình truyền hình năm nào? Ở đó người ta sẽ nói chuyện quan trọng gì, mua vui cho nhau như thế nào? Liệu có phải là dò xét nhau để định đoạt giá ca cao mùa tới hay không? Và có khi nào người ta bỏ ra hết khỏi đầu hàng dãy số loằng ngoằng chỉ để vui chơi cười nói? Nhưng không thể không ở đâu đó, một chút ganh đua và hầm hè nhau để xem ai mới thực sự là người giàu có. Những người giàu mới nổi, ở cái trấn D’ran này không biết có bao nhiêu người! D’ran và dạ hội, tôi không thể nghĩ ra được mức độ náo nhiệt khi liên kết hai nội dung ấy với nhau. Hoặc không thể chối được rằng tôi chẳng biết gì về những thứ như vậy, hoặc tôi chỉ băn khoăn không biết phú quý ở vùng này gấp bao nhiêu lần cái thước đo mà tôi có sẵn.

Bà nội tôi từng kể cho tôi nghe một câu chuyện chẳng có mấy nội dung nhưng cực kì ấn tượng. Hà Nội ngày trước rất nhiều người giàu, không chỉ có tiền mà còn có đầu óc. Trong cái thú ăn chơi cũng như bày tỏ tình cảm, người Hà Nội thuở ấy chẳng thua kém ai bao giờ. Một bà mới góa khi đó đã bỏ mặc tất cả dư luận, nào là xã hội lai căng, tư tưởng thuộc địa phong kiến để làm một buổi cảm ơn, trả lễ cho tất cả những người đã đến chia buồn. Trong buổi ấy, ngoài lời nói, bánh quy và cà phê đen thì chẳng còn gì nữa, trừ bột vàng. Bột vàng thật nhuyễn đã được người ta chuẩn bị không sai lệch, rắc lên trên mặt cà phê. Tôi không biết bạn có hình dung giống như tôi đã làm chăng? Một bữa tiệc với màu đen trên y phục, quần áo theo kiểu Pháp lẫn kiểu ta và vàng trôi vào bụng. Dù là bụi vàng thì nó vẫn là vàng, đúng không nhỉ? Vật chất có đáng giá đến mấy, miệng ăn núi lở rồi cũng không còn. Có lẽ cái ông nhà văn Nguyễn Khải đã quá nhọc công tả cho được hạt ‘bụi vàng’ biết thở của ông ấy, mà không hay biết đến hạt bụi vàng chân thật nằm trên mặt cà phê. Bởi nếu ông đã nghe qua câu chuyện của bà nội tôi thì chẳng tội gì phải dài dòng văn tự đến vậy. Về cơ bản, người Hà Nội phức tạp: kiêu kì mà khiêm tốn, dè sẻn mà hào phóng. Về cơ bản, con người phức tạp. Dĩ nhiên chỉ một người đàn bà ở D’ran thôi cũng đủ phức tạp rồi.

Mãi mãi có lẽ chẳng bao giờ tôi quên được sự lạ lùng này. Cảm giác ấy y hệt như lúc tôi rời khỏi con đường chính, chọn một lối rẽ để đi xuống thăm thú ruộng vườn bao quanh trấn. Dưới thung, tôi đã thấy rặng núi xanh đến kì lạ, và ngọn khói trắng nằm ngang là đà trên từng luống rau xanh. Tôi đi theo hướng ấy, lựa một con dốc nhỏ để leo lên đường chính. Rặng núi không ở lại mà đi cùng, rồi vượt lên trước mặt. Nó vẫn xanh rì dưới ánh nắng. Và tôi hiểu có những thứ trải qua rồi, sẽ không mất đi mà cùng với ta ngao du mãi trong cuộc đời, thành một niềm ám ảnh. Còn thứ dễ mất đi thì được ta nhớ mãi, như đám khói đã nằm trong máy ảnh của tôi rồi.

Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015

CƠ THỂ CON NGƯỜI LÀ MỘT VẬT SỐNG ĐỘNG, ĐỐI TƯỢNG CỦA MĨ THUẬT. HÌNH HỌA MÀU NGHIÊN CỨU VÀ SÁNG TÁC CÓ MỤC TIÊU TÁI HIỆN SỰ SỐNG CỦA CƠ THỂ NGƯỜI BẰNG HÌNH KHỐI, MÀU SẮC THEO NHIỀU CÁCH THỨC KHÁC NHAU.

Mỗi họa sĩ có cách dùng màu riêng trong việc thể hiện cơ thể người. Từ cách dùng màu tương đồng tinh tế đến dùng màu tương phản đầy ấn tượng, tất cả đều có những giá trị riêng để khẳng định bản lĩnh, thẩm mĩ của mỗi nghệ sĩ, và sự phong phú trong ngôn ngữ thể hiện.

Có rất nhiều họa sĩ đã vẽ cơ thể trần của con người bằng hòa sắc tương đồng. Trên nguyên lí cơ bản, các màu tương đồng bên tối cơ thể nằm trong một hệ thống với các màu tương đồng bên sáng, giá trị nóng và lạnh của màu được chuyển tải trên một màu gốc, các họa sĩ đã sử dụng tối đa các màu có thể.

Henri Lebasque có những màu tương đồng rất ngọt ngào trong hình họa, thể hiện sự sống của cơ thể. Phần đầu và các chi có màu sắc ấm hơn hẳn, có thể phân biệt với phần lưng, ngực và bụng. Các màu trong phần nền cũng tạo nên nhiều giá trị khác nhau, để cho thấy được độ nóng lạnh của cơ thể ở vào mức trung gian. Đây có thể được xem là cách vẽ người thể hiện được nhiều màu hơn cả.
Ví dụ 1.
Hệ thống màu tối và màu sáng trên cơ thể được chuyển tải rất nhẹ nhàng. Các màu tối lạnh trong  tương quan nằm gần kề với màu lạnh ở nền. Trong khi các màu tối nóng, hay sáng nóng  dường như có được từ sự phản xạ mảng màu  cam vàng ở góc dưới.
Ví dụ 2.
Hệ thống màu có xu hướng chuyển sang xanh lá trên cơ thể  phản ánh người mẫu nằm trong một tương quan lạnh.  Những màu nóng trên cơ thể khi đó đóng vai trò quan trọng để thể hiện sức sống.
Ví dụ 3.
Phần đầu và các chi được thể hiện bằng màu nóng hơn phần ngực và lưng trong tương quan. Các màu nóng đó khi nhìn kĩ có xu hướng chuyển tải màu đỏ từ nền nhiều hơn, mặc dù đã được hòa trộn với màu lạnh trong tương quan.
Ví dụ 4.
Không khó để nhận ra sự hài hòa ngọt ngào trong hệ thống màu tối của cơ thể với phần nền. Bờ vai phía xa nằm trong tương quan nhỏ, ngả về xanh, phản ánh màu nền phía trên, xa hơn và lạnh  hai chân ở dưới ở gần và nóng hơn..
Cũng có họa sĩ cho người xem thấy ít màu hơn trên cơ thể con người. Ví dụ như vài bức của Robert Henri. Mặc dù đó là hòa sắc tương đồng, nhưng cơ thể này cho thấy các giá trị sáng tối nhiều hơn là nóng lạnh, cảm giác của việc màu trắng được sử dụng nhiều. Lí do là vì các màu tương đồng mà họa sĩ đã phối thật sự rất gần giống nhau, tạo ra được sự nhẹ nhàng. Sự ấm áp của da thịt trong trường hợp này có vẻ tinh tế hơn. Điều đó là phù hợp với một không gian được xây dựng đơn giản hơn.
Ví dụ 5.
Tương quan màu nhẹ nhàng và ngọt ngào này, cho người xem nhận ra rõ hơn về vai trò của màu tươi và màu tái trong việc thể hiện một cơ thể sống. Ta có thể gọi tên được màu vàng trên cơ thể, màu xanh dương của nền, màu xanh nhẹ hay màu trắng của tấm vải. Nhưng thực tế đó là một màu vàng ít tươi hơn màu bậc 1, màu xanh ngả về xám rất nhiều và mảnh vải là sự phản ánh của nhiều ánh sáng từ không gian quanh đó. Một chênh lệch rõ rệt trong độ tươi tái của màu có thể thể hiện nổi bật một cơ thể đang sống.
Ví dụ 6.
Với các màu nóng phối cùng nhau, giá trị nóng lạnh của màu thật sự cần tính toán rất kĩ. Họa sĩ đã thật sự dùng độ nóng  nhất của màu đỏ để thể hiện chân dung. Màu vàng cũng là màu nóng, nhưng yếu thế hơn hẳn.
Ví dụ 7.
Thêm một ví dụ nữa, không phải thuộc về Robert Henri. Sắc nóng và lạnh trên cơ thể của mẫu khỏa thân cũng như mẫu có trang phục chênh lệch rất nhẹ. Dễ thấy nhất là da trên xương ức và chân dung nóng và đậm hơn phần ngực. Một điểm thú vị nữa là tấm vải lót ngả màu về tím, dù nhẹ, nhưng vẫn tạo cảm giác không gian gần hơn so với sàn nhà màu xám ở phía xa.
Ví dụ 8.
Một ví dụ với chất liệu màu nước, loại chất liệu đơn giản hơn trong sử dụng nhưng lại đạt được hiệu quả không hề kém, cho thấy cách thể hiện tương quan của một cơ thể sống. Với giấy không phải là màu trắng sáng hoàn toàn, nó cho phép họa sĩ xây dựng một hòa sắc tương đồng dễ dàng hơn. Điều đó cũng xảy ra với chất liệu chì màu khi đan bút thành các lớp mỏng chồng lên nhau. Không có gì quá tím, trừ phần dưới của mái tóc. Trong ví dụ này, hệ thống màu nóng trên cơ thể không có nhiều thay đổi về gốc màu. Màu ở các vị trí trên cơ thể tương đồng rất nhẹ.
Ví dụ 9.
Với chì màu, khi sử dụng bằng cách đan từng lớn thưa, hiệu quả đạt được là một hòa sắc dịu dàng trên nền giấy. Cũng vì lí do đó, việc lựa chọn màu giấy, hay quét một lớp nền có màu trở nên rất quan trọng. Các chất liệu đem lại hiệu quả theo cách này nhắc nhở người vẽ một nguyên tắc quan trọng: nóng và lạnh không phải là giá trị cố định của màu mà chúng phụ thuộc vào vị trí trong tương quan. Trong ví dụ này, gò má của người mẫu có màu nóng hơn chung quanh là vì họa sĩ đã dùng thêm màu đỏ hoặc cam, nơi khác thì không.
 Màu nền và cách sắp đặt màu nền cũng là một phần rất quan trọng. Hình mẫu người trong tranh có thể là một hòa sắc tương đồng, nhưng trong tổng thể tranh thì lại là một phần của hòa sắc bổ sung, hoặc hòa sắc tương phản. Các ví dụ 1 và 2 cho thấy cơ thể phản ánh và mang màu nhấn trong một hòa sắc bổ sung, phát triển thành bổ sung kép.
Ví dụ 10.
Bằng ngôn ngữ đồ họa, các màu sắc tương phản đã được sử dụng để tạo ra không khí, âm thanh và nhịp điệu đầy sống động. Màu trên nhân vật chính gồm một số màu tương đồng, nóng hơn hẳn trong tương quan, làm nên điểm chính trong tranh có các màu tím và xanh dương.
Ví dụ 11.
Màu của phần da thịt trên chân dung, mái tóc và đôi tay tạo nên một sự tương phản nhẹ của màu trong một hòa sắc bổ sung. Mức độ tương phản này phù hợp để tranh không mất đi màu sắc chủ đạo. Màu cơ thể là một hệ thống tương đồng, cũng như màu nền và trang phục là hệ thống tương đồng thứ hai. Màu chuyển giữa hai hệ thống có thể nhận ra ở phần tối của khối tóc, phần vải trên vai.
Ví dụ 12.
Với đặc điểm giới hạn về số lượng màu của nghệ thuật đồ họa, một hòa sắc tương đồng cô đọng và tinh tế đã được sử dụng để khắc họa chân dung nhân vật. Màu sáng của da trên gương mặt và bàn tay gần như trùng với màu nền. Vì thế cũng giống như màu nước hay chì màu, màu nền là một yếu tố quan trọng: tạo ra hòa sắc; tượng trưng cho không gian; làm thành màu và độ trung gian trong một số trường hợp, tạo ra màu và độ sáng nhất trong một số trường hợp khác.
Ví dụ 13.
Với một màu xám trung gian ngả ít về nóng hoặc lạnh, chủ thể sẽ nổi bật hơn rất nhiều. Khi nói tới 'màu xám', người ta có thể hình dung một màu trung tính về nóng lạnh và trung gian về độ. Phát triển khái niệm đó lên, đó thật sự chỉ là một màu trung tính, màu đó có thể sáng hơn hoặc tối hơn. Điều đó thật sự rất quan trọng, trong ứng dụng thực hành khái niệm 'xám màu', khi màu xám nghiêng về nóng hoặc lạnh, ửng các màu khác nhau của tương quan tranh.
Ví dụ 14.
Một ví dụ cho hòa sắc tương đồng hoàn toàn của Ivan Kramskoy với màu chủ đạo là xám vàng. Các mức độ tươi hay tái của màu, nóng và lạnh được chú ý sắp xếp cẩn trọng. Một ít gốc màu xanh dương được phối trong màu chủ vàng được xây dựng thông qua màu xám. 
Vẽ cơ thể người hay vẽ hình họa bằng các màu có gốc tương phản cũng tạo nhiều cơ hội cho sự thể hiện của họa sĩ. Đó có thể là một hình họa mang tính nghiên cứu hay một hình họa sáng tác mang nhiều cảm xúc riêng. Từ nguyên tắc về màu dùng trên cơ thể người khi phối các màu tương đồng, có thể hiểu việc sử dụng màu tương phản là sự đẩy xa về gốc màu đối với tương quan sáng tối và nóng lạnh. Mỗi hệ thống màu sáng hoặc tối tuân thủ một cách tương đối theo hệ thống nóng hoặc lạnh.
Ví dụ 15.
Hệ thống sáng và hệ thống tối trên cơ thể thuộc về 2 hệ thống nóng là lạnh khác nhau. Trong hệ thống nóng, các giá trị nóng cũng thay đổi tùy vài vị trí: Vai, đùi và lòng bàn chân nóng hơn phần lưng, nghiêng về đỏ. Rõ ràng gốc màu nóng và lạnh đã xa nhau hơn so với cách dùng màu tương đồng. Hệ thống lạnh có màu tương đồng với không gian, càng làm tăng mức độ tương phản với hệ thống màu nóng.
Ví dụ 16.
Henri Matisse đã dùng các màu nổi bật để vẽ về cơ thể con người. Các màu trong tranh thật sự 'dã thú'. Người xem có thể nhận ra các cặp màu tương phản rõ rệt. Tuy nhiên, trên chân dung, họa sĩ đã khôn khéo xây dựng hệ thống sáng tối và nóng lạnh từ hai gốc màu cam là lục với độ tương đồng nhẹ và phần nào tương đồng. Điều đó phản ánh tính nghiên cứu rất riêng của phái Dã thú.
Ví dụ 17.
Chân dung của Paul Gauguin được vẽ bởi hai hệ thống sáng - tối, nóng - lạnh dựa vào 2 gốc màu cam và lam. Tác dụng thị giác mang lại là rất lớn khi phản ánh tâm hồn của nhân vật. Độ lạnh của màu thuộc phần tối và phân bổ của màu lạnh trong tranh rất phù hợp để xoa dịu cái nóng từ nền, mũi, trán, gò má và miệng, tạo ra sự ngọt ngào của hòa sắc.
Ví dụ 18.
So với màu nền và hai chân mang trang phục, mức độ có màu của hệ thống tối trên da thịt không bằng, tức màu của hệ thống tối xám hơn dù nó sáng hơn so với màu xanh lam ở ngoài. Tuy nhiên mức độ đó thật sự tối để đẩy hệ thống sáng và nóng lên trở nên nổi bật. Đồng thời, mức độ nóng lạnh và sáng tối đó đã thể hiện được ánh sáng mạnh chiếu lên cơ thể và vùng phản quang rộng và dịu dàng.
Ví dụ 19.
Những kí họa nhanh bằng màu nước thường được ghi bằng màu nguyên. Màu chuyển của kí họa đễ dàng có được khi pha nhanh hay phủ chồng các lớp màu. Các phần nóng trên cơ thể người mẫu được quy ước bằng màu cam trong khi phần lạnh chuyển từ xanh cobalt tới tím. Đó là cách nguyên cứu hệ thống tối của cơ thể với các biến đổi về màu, khác với việc xây dựng theo cách thường: hệ thống sáng dùng gốc màu nóng còn tối có gốc màu lạnh.
Ví dụ 20.
Ví dụ này đưa ra một trường hợp khác. Sự tương phản nóng lạnh trên cơ thể không nằm hệ thống của ánh sáng. Với một màu xanh lá chủ đạo phủ trùm hoàn toàn, từ nền đến da thịt, thì những điểm cần thiết để diễn tả sự sống của cơ thể đã được đạt vào các màu có gốc cam đỏ rõ rệt. Điểm nhấn của bức tranh được nhận diện ngay lập tức.
Ví dụ 21.
Ánh sáng như đang cháy trên da thịt nhờ các màu trong hệ thống sáng chạy khắp không gian có một độ tương phản về nóng lạnh phù hợp với màu lạnh trong tối. Nóng có nhiều mức độ, lạnh cũng có nhiều mức độ. Nhưng nhìn chung trên cơ thể, nóng và lạnh là phân biệt. Đó cũng là đặc điểm chung của cách dùng màu nghiêng về tương phản.
Ví dụ 22.
Ví dụ này cho thấy một sự tương phản về nóng lạnh, chứ không hẳn về màu. Sự tương phản đó là cần thiết để không phải xây dựng thêm nhiều giá trị nóng lạnh trong từng hệ thống. Điều này khác hẳn với cách thể hiện thông thường, cho thấy một cảm quan đặc biệt về sự sống của cơ thể liên quan trực tiếp đến ánh sáng. Hệ thống tối không chỉ lạnh hơn mà còn tái hơn, xám hơn về màu. Màu thật của sự vật khi đó không phải cấu tạo bởi vùng sáng và tối trên sự vật mà là màu nào hiển hiện trong vùng phơi trực tiếp ra ánh sáng.
Ví dụ 23.
Khi áp dụng một trật tự gần như ngược lại, cơ thể như được chiếu sáng bởi một nguồn sáng lạnh. Ánh sáng không có tác dụng làm hiển hiện màu của sự vật trong trường hợp này, đơn thuần chỉ cho thấy nguồn sáng. Ánh sáng không đơn thuần không màu, mà mang một sắc lạnh để che phủ toàn bộ không gian. Sức sống của con người phụ thuộc vào hệ thống màu nóng được sử dụng, ở đây nằm trong các mảng tối.
Ví dụ 24.
Hệ thống các mảng tối của cơ thể thể hiện sự cộng hưởng màu với nền, tạo ra vẻ ấm áp của da thịt. Tất cả như tương phản với sắc lạnh của phần da sáng, hơi nghiêng về xanh. Hiệu quả trong cách đặt màu này là khác hẳn so với các ví dụ trên và khác với hòa sắc tương đồng.
Ví dụ 25.
Bên tối của chân dung có màu xanh, tương đồng với trang phục và mảng tối đó tái hơn so với màu bên sáng, tương đồng với mảng màu ngả về tím trên vai áo - thể hiện cho phần tối của trang phục. Các màu được sắp xếp vào hệ thống có vai trò quan trọng trong việc thể hiện sự tương tác qua lại của màu, diễn đạt ánh sáng chính hay sáng phản quang, tạo chiều sâu không gian. Nguyên lí này được áp dùng nói chung cho việc diễn đạt không gian, không chỉ con người và đó cũng là công cụ cơ bản giúp người vẽ kiểm soát không gian.
Như vậy, để thể hiện cơ thể sống, các phương pháp phối màu đã được các họa sĩ khai thác tối đa. Việc nghiên cứu sáng tối đi kèm với màu sắc không phải là một công việc đơn giản, đòi hỏi mắt nhìn và sự cảm nhận. Không thể phủ nhận sự tồn tại của một vài nguyên tắc cơ bản, nhưng cũng không thể chối bỏ các xử lí là vô cùng phong phú, không theo một quy luật nào. Một tác phẩm chỉ là một cách diễn giả và sử dụng các nguyên tắc chứ không minh họa trọn vẹn cho luật lệ nào. Mỗi một cách thức cho ra một hiệu quả nhưng cuối cùng cũng nhằm mục đích thể hiện một con người sống động, có hơi thở và tình cảm.

Thứ Năm, 24 tháng 9, 2015

2.

Trời nóng hầm hập, đang nằm thiu thiu bỗng tôi tỉnh dậy. Một giờ chiều, Sài Gòn nắng hừng hực. Bỗng nhiên tôi nghĩ ra một điều rất lạ. Tôi nghĩ về những đứa bạn đã học chung ở cấp 3. Hồi ấy trường có chím lớp cho mỗi khóa, tính nhanh thì chưa đến ba trăm cái đầu. Hồi ấy vào lớp mười, tất cả chỉ mới tròn mười lăm tuổi. Có đứa sinh tháng một, đứa sinh tháng mười hai, cũng cách nhau cả năm rồi còn gì. Nhưng nếu tính kĩ càng hơn theo tuổi ta thì đứa mười sáu, đứa mười bảy. Có đứa đã đi được nửa đại vận, có đứa chỉ mới bắt đầu. Thực tình nhìn một đám sàng sàng như nhau nhưng số phận của từng đứa đã khác nhau ngay phút đầu. 

Ở cái tuổi ấy, lũ trẻ gặp nhau không thể suy nghĩ được gì nhiều nhặn, không cảm nhận được là bao cái phần khác biệt ấy. Nhiều đứa ở thành phố, nhiều đứa nữa ở các tỉnh về. Ngày đó, gặp người lạ, tất cả đều biết rằng tốt hơn hết là đừng cao ngạo. Dù cho điều đó về sau chẳng còn lại được bao nhưng nó cũng là cái gốc tốt đẹp ban đầu. Và rồi đây là tất cả mọi thứ mà một đứa mười lăm tuổi có thể nhìn thấy về bạn bè của mình: giỏi hơn mình, gan lì hơn mình, trưởng thành hơn mình... Còn hôm nay, chợt nhiên nghĩ lại, tôi nhận ra rằng, cái phút ấy, bất kì ông bố bà mẹ nào để cho con mình rời quê nhà đi học, đều mang một ham muốn to lớn hơn những bậc phụ huynh ở thành phố. Điều đó thuộc về cái kiểu của những ẩn tình to lớn sau một hành động đơn lẻ khả kiến.

Tôi có một người chú, cách đây độ hơn hai chục năm, đã bán căn nhà ở trung tâm thành phố, tìm mua khoảnh ao lấp ở vùng ven. Người ngoài nhìn vào và ngay cả người nhà thì tưởng đơn giản tính tình ông này khó, chỉ có mỗi chỗ ấy là vừa ý. Chỉ đến khi ông ấy mua cả căn hộ chung cư và xe hơi cùng một lúc, thì cái công sức nằm gai nếm mật kia mới tựu thành. Giá trị của cái hành động năm nào bấy giờ mới bừng sáng tỏ tường.

Người ta thường nói đời dựa vào số. Có số ly gia, ly hương, có số hưởng được của cải, gia sản ông bà để lại. Tôi nghĩ kĩ thì cho rằng cũng là cách người ta lựa chọn cuộc sống cả thôi. Mỗi lúc trong đời có cái thế của nó. Gia đình chẳng có gì, thì con cái chỉ còn nước ra đi. Số nào được ở lại? Tuy nhiên cái tính toán của con người ta sâu lắm. Đừng tưởng ai cũng có thể làm một việc nhỏ mà lợi ích to lớn. Có người làm hàng trăm chuyện kinh thiên động địa, thay đổi cuộc sống của gia đình xoành xoạch, cuối cùng lại chẳng được một giây yên ổn nào.

Chỉ có đứa chịu đựng tất cả những loại kế hoạch ấy là khổ thôi. Khổ vì người rồi khổ vì mình.

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015

Tôi đi học

Hôm nay là ngày trở lại trường học. Tuy nhiên không phải cái ngày trọng đại khi kỳ nghỉ hè của đứa trẻ cấp hai kết thúc, trở lại trường để xem tên mình trong bảng thông báo dài ngoằng dán đâu đó, để biết năm học tiếp theo sẽ ngồi ở lớp nào, bạn nào cũ, bạn nào mới và lẳng lặng mà hồi hộp chờ đợi giáo viên của từng bộ môn xuất hiện: Bà cô già khằn, ông béo khó tính hay một gương mặt giản dị hiền lành mà đứa học sinh nào trong trường cũng quý mến. Những định khiến thiên vị đó có lúc đúng có lúc sai lại có lúc tinh tế đến lạ lùng, là một cách giới thiệu những bài học đầu tiên về con người theo lối không chính thức nhất, biến thế giới ngầm của đám học sinh trở nên màu sắc hơn.

Rồi màu sắc cũng nhạt dần. Mọi thứ nhìn nhận bắt đầu đóng khung trong bộ não. Ngày trở lại trường thủa cấp ba trở thành việc chấp nhận quay lại với cuộc sống không thể khác hơn được. Nhưng đội ơn trời đâu đấy vẫn còn ít niềm vui. Có khi là vui ngây ngất, bởi người ta vẫn nói thời học sinh là vui nhất. Năm học mới không còn sự hồi hộp khi chuyển lớp, không lo lắng việc đổi chỗ, không câm lặng đóng tiền mua các loại logo, phù hiệu. Một lần, người ta in sai tên trường, và cả bọn học sinh đã được phen náo loạn. Gì thì gì, tên trường vẫn là một thứ đặc biệt, thậm chí thiêng liêng, không ai được động vào. Năm ấy, khi chiếc phù hiệu thêu với chỉ các màu đã thành truyền thống bị thay bằng loại in sẵn, đem về ủi nóng lên cho dính vào áo, nhiều đứa tiếc hùi hụi. Và con người to lớn mập mạp vẫn bị đồn thổi là nguyên nhân của nhiều nề nếp mới lạ trong trường lại nhận thêm vô số ánh mắt dè bỉu từ sau lưng. Này thì phù hiệu, này thì logo. Để đối đáp lại chính sách được cho là phô trương ấy, đứa thì dùng băng keo hai mặt dán hờ, đứa thì nhất quyết không dán, mặc áo khoác che kín ngực và tay, cốt làm sao cho giám thị không thấy là được. Cuộc tẩy chay bắt đầu. Dù không được bao lâu, nhưng mấy chuyện đó làm năm học khởi động trong không khí náo nhiệt. Cái hừng hực ấy luôn có ở ngôi trường trẻ với đầy người trẻ. Chúng tôi tạo ra bản sắc của chính mình chứ không thừa kế bất kì danh xưng nào, sống với cái mình tạo nên thật hạnh phúc. Nhưng rồi không biết nó sẽ già đến mức nào, cũ kĩ như chính cái nơi tôi đứng hôm nay hay sao?

Hôm nay tôi trở lại trường đại học. Ngôi trường già cằn trông tội nghiệp xiết bao. Những gốc cây cụt nhánh đâm thẳng lên bầu trời xám xịt đã rách lủng thủng nhiều mảng trắng. Từng khoảnh sân như con vật kì dị ngoác mỏ nằm cô độc. Nó đã quá già đến nỗi bất kì sự việc nào xảy ra, chỉ ngày một ngày hai, lập tức tan vào trong quá khứ vô tận, như cái dạ dày nuốt chửng mọi thứ. Rồi nó cũng sẽ nuốt chửng tôi, như bao nhiêu người khác. Ánh sáng hắt ra hành lang từ nhiều phía, soi rõ rồi lại bôi nhòe từng đường nét của chân dung. Người ta nhận ra nhau không phải nhờ ánh mắt, đôi môi hay khuôn mặt mà bởi vóc dáng: quần jean áo thun, váy xòe, giày cao gót, ba lô hay túi xách. Từ mờ mịt, nhân hình hiện ra, nổi lên gò má, sóng mũi rồi chìm vào tăm tối của ánh mắt, tắt khuất đi. Phải chăng đó là kết cục vĩ đại của tạo hóa, đến từ bóng tối rồi trở về với bóng tối? Hay chỉ vì đại học dạy tôi nghĩ ngợi nhiều hơn trường học?

Vô số đôi cánh cửa cao khép kín và khóa chặt, tôi thấy rõ ở đây người ta không nghỉ hè, tuy sau trận bão đầu mùa chưa thấy những hư hại được sửa sang. Có lẽ cái hố đen thời gian còn sâu hơn cơn bão nhiều. Băng rôn, áp phích, hình ảnh được trưng kĩ càng. Bàn ghế ngổn ngang trong sảnh trang trọng. Khoảng tường cao chỉ còn lại ánh sáng đứng lui vào yên tĩnh. Đỏ và vàng, xanh lá và xanh dương thắm bật trong khung cảnh quá phần ảm đạm bởi tiết trời giữa mùa mưa. Có một thứ gì đó ở đây muốn vượt lên, nhưng rồi lại hụt hơi khuỵa xuống. Một vẻ dở dang và hơi chút hoang tàn khiến bất cứ ai nhìn thấy cũng xốn xao. Đám lá chuối ngược sáng tối sầm mặt mũi, khi tôi nhìn thấy, hằn học in lên nền trời cái dáng lưa tưa rách rưới. Kèo cột vuông góc lạ thường hóa thành hàng dài thập giá lớn tướng chạy dọc bên ngoài hội trường, cứ cách một quãng lại dựng lên lêu khuê. Một nữ tư vận áo xám thấp thoáng xuất hiện rồi biến mất ngay. Tôi cứ ngỡ mình mơ hoặc giả nơi này có một nhà thờ ẩn giấu. Nhưng chắc có lẽ vì gần đây tôi đọc quá nhiều tiểu thuyết Anh, cộng với sự mệt mỏi hằn lâu làm tâm trí không tỉnh táo. Tất cả những người đó tôi đều quen mặt cả rồi. Tôi không phải là một người có đạo, nên cũng chẳng quan trọng làm gì.

Một lần tôi theo người bạn vào nhà thờ, bởi bạn tôi có đạo, cần đi lễ, còn tôi không biết đi đâu cho hết quãng thời gian ấy. Gần như là tôi bị kẹt. Nhưng so với những gì xảy ra về sau, tôi mới hiểu rằng được nhìn thấy chung quanh có nhiều người thanh thản và hạnh phúc còn tốt hơn những thân người đông cứng rũ rượi chán nản. Quanh đi quẩn lại tôi vẫn chỉ đang nói về chuyện bị đóng khung: suy nghĩ, cảm xúc, hành động, kí ức hay chính tuổi thơ. Nếu những vết mực đỏ và đen ngoằn nghoèo có thể lấp đầy một lối sống tư sản, hưởng thụ, trụy lạc thì nó phải chăng cũng tạo ra vẻ thời thượng cùng địa vị xã hội mãi mãi? Tuổi thơ của tôi lèn chặt tiếng cười vỡ òa trong ván bài đen đỏ có tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt. Từ sáng tới đêm, thâu đêm suốt sáng... Cuộc đời là canh bạc lớn, ăn được thua đền. Bên cỗ bài con, đứa trẻ bắt đầu học hỏi về nhân sinh vượt quá sức thấu hiểu của nó. Hai sắc màu hóa ra vạn trạng: tướng đen, pháo đỏ, sĩ điều, tượng thâm...  Tôi mang theo dấu đỏ hình bông hoa lặng lẽ bên dưới lô Hán tự loằng ngoằng của cây tam cúc vào đời, chua chát nhìn vô số con dấu tròn trịa đỏ chót đóng chặt tháng ngày vào cái xã hội đầy mưu toan của quyền lực, sức ảnh hưởng và sự sợ hãi. Vẫn là màu đỏ uy quyền, của máu, của lửa, của phù sa, của khăn cưới, của trầu cau, của chiếu hoa cạp điều. Như hôm nay, dù mọi thứ có bạc phơ, màu đỏ vẫn gan góc lì lợm từng mảng. Có đứng góc nào, nhìn về hướng nào, khi nhắm mắt lại, vẫn còn âm hưởng. Cuộc đời là canh bạc.

Hôm nay tôi đi học.











Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2015

một kiếp người một cõi thần

Hà Nội, ngày 28/7/2015. 

Từ ngày 24 đến nay, trời nắng nhẹ, nhiều mây, đi ngoài phố không thể biết hướng nào là hướng Đông, chỉ có một bầu trời xam xám nơi những đám mây gợn nhẹ cắt hình không rõ rệt. Lòng phố chỗ ướt chỗ khô không thể lường trước, những nơi có đất biến thành sình lầy. Một thứ bùn xám nâu sẵn sàng bết lên giày dép khi người ta dẫm phải.

Trông thành phố mà buồn muốn khóc. Tôi không còn có thể ở đây như ngày xưa nữa. Đã không còn một mái nhà nào như thuở trước. Cảm ơn hai bạn trẻ đã cưu mang tôi trong những ngày buồn thảm giữa mùa hè này. Ơn này xin ghi lòng tạc dạ mãi không quên.

Không còn bánh rán, không còn tam cúc, không còn âm thanh lao xao buổi sáng, không còn tiếng róc rách của nước lọc qua miệng phễu chặn bông. Và có lẽ là chẳng còn điều gì nữa. Đời sống thật vắng lặng. Sự im lặng đến lạ thường.

Đường xa vạn lý, suốt hai mươi năm qua, tôi đã đi rất nhiều mà gần như hóa thành chưa đi đến đâu cả. Không có người thì làm sao có đất. Đất vắng người, tôi không biết tên gọi có ý nghĩa gì nữa chăng?

Hôm 24, tôi lên Bất Bạt, Ba Vì. Đi ngang cánh đồng vuông, nhìn những ngôi mộ cô đơn lạc lõng mà nghĩ đến tương lai như bức tường trắng lờ nhờ không hình ảnh. Bất kì ai rồi cũng sẽ nằm đó, cô đơn theo cách lạ lùng nhất có thể có. Trời mưa gió, đất trong mộ sụt xuống, cây cỏ bạt ngàn cao qua đầu gối mới thấy tạo hóa vô tình đến nhường nào. Mà con người còn vô tình hơn vậy.

Chiều 25, tôi cố gắng không quên đường về ngôi nhà cũ. Tôi tập đi trở lại từng bước chậm chạp, nhớ lại một quãng thời gian dài rồi nhận ra có nhiều người phải qua năm, qua tháng mới lộ rõ bản chất thật. Yêu thương và thù hận, nỗi đau mất mát bao trùm trên mọi thứ, tước đoạt đi giá trị gán lên mỗi thời khắc của đời sống. Giờ tôi không thù ai oán ai, không thương ai mến ai, tôi chỉ cứng đơ thân mình ngồi đó nhìn nước hồ còn xanh, nhìn những ngôi nhà với bao người xa lạ. Chanseaulme. Chanseaulme...

Làm sao tôi có thể kể cho bất kì ai nghe những điều nhỏ nhặt, linh tinh từ thời ấu thơ. Làm gì có ai lại cần thông cảm với những thứ nỗi niềm của một đứa trẻ. Làm sao nói ra được mùi vị của yêu thương đã mất đi, vòng tay bao bọc bao lâu nay bỗng một ngày không còn nữa. Chẳng thể nào.


Tôi đã dùng trọn thời gian của ngày 26 để lặng lẽ ngắm nhìn cuộc sống của hai bạn trẻ tại Hà Nội. Đất này có dễ sống không? Chẳng phải hai bạn sống thoải mái lắm sao? Chỉ có mình tôi là thờ ơ và vô cảm. Cũng chẳng rõ là vì đâu, thành phố này với tôi gắn liền với hình ảnh gia đình: một mái nhà to, một sân vuông nhỏ có giàn hoa giấy cùng cửa chớp và song hoa. Và tôi cho rằng hai bạn vậy là viên mãn. Bí mật của vùng đất này, nghìn năm văn hiến, không phải là những thứ hào hoa khoa trương, mà là sự khéo léo, tài năng của những kẻ nhập cư mang theo sức lực cùng ước mơ giàu có, như lịch sử của bao nhiêu lớp người vốn đã từng như thế, như thế...

Ngày 27, tôi bị lạc giữa 36 phố phường. Các con phố dài và đông đúc cứ đưa chân tôi đi mãi. Hàng Bông, Hàng Mành, Hàng Quạt, Hàng Gai, Hàng Cót, Hàng Mã, Hàng Đường... Cuối cùng tôi cũng tìm được đường ra chợ Đồng Xuân mà không phải dùng đến bản đồ. Hà Nội có rộng lắm không? Bao nhiêu năm qua, tôi chưa từng quan tâm vùng đất này có bao nhiêu con đường, bao nhiêu mẫu vuông. Hà Nội với tôi là câu chuyện trăm năm, trăm người, trăm nẻo gắn liền với số phận nhân sinh thăng trầm, tiến thoái. Chưa bao giờ, tôi không cần biết một Hà Nội loang lổ, lởm chởm mái tole, thùng nước, khoan cắt bê tông và rong rêu nhầy nhụa. Người Hà Nội rồi sẽ tinh tế trở lại, khi đồng tiền trên tay chắc chắn có thể bỏ được vào túi. Người Hà Nội giờ đây chỉ quan tâm đến việc làm giàu và lên đồng, những thứ thiết thực trong cuộc sống. Vắng xa rồi băng rôn biểu ngữ và khẩu hiệu nơi tâm trí, bữa cơm, chén nước cùng câu chuyện. Rồi có lẽ tôi sẽ trở lại nhiều hơn, khi vùng đất của thần và người hồi sinh đầy sức sống. 

Trong phòng chờ cho chuyến đi về, không biết tiếng quạt hay tiếng mưa, tôi chỉ nghe âm thanh rào rào bên tai không ngừng nghỉ. Tôi lại nhớ bài hát người lái xe mở trong chiếc taxi đi Yên Kì hôm trước: ai về có nhớ mình chăng, tôi về tôi nhớ hàm răng mình cười, ai về mua lấy miệng cười, riêng tôi mua lại mảnh đời ngây thơ..



Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2015

lại chuyện những cái cây

Người ta bắt đầu chuyền tay nhau những hình ảnh cây cối bị chặt phá trong Thảo cầm viên Sài Gòn. Thành phố lại sắp sửa chuyển mình, đi vào vùng trơ trắng.


Ngày xưa ông bà ta có câu tấc đất tấc vàng, ngày nay còn có câu khác nữa, là tấc đất tấc quyền. Người ta nhìn thấy trong từng phân vuông một trên nền thành phố này, các quyền được khai phá, khai thác, ghi dấu cá nhân vào trong lịch sử mấy trăm năm của nó. Bởi vì ước mơ là một quyền cơ bản của con người, cho thấy sự tiến bộ của toàn thể nhân loại, nên bất kì một ai, cũng đều có được cái quyền muốn người ta ca ngợi. Độ chục năm sau, báo chí sẽ nhắc tới ông Bờ Văn Cờ hay bà Kê Thị Lờ nào đó, là tác giả, là chỉ huy chính, là nhạc trưởng, là tổng công trình sư của một thành phố hiện đại, văn minh và hết mực hào nhoáng. Đâu có lẽ nào lại không cho người khác một chút ước mơ, nhất là khi những ước mơ đó nằm trong đầu những ông bà sĩ thuộc giới tinh hoa của một thế hệ!

Nhưng rồi cuộc sống sẽ ra sao, khi một ngày mặt trời ló dạng, bước ra đường người ta không còn thấy những tán lá lao xao của cây dầu, cây sao? Chủ nhật đều đặn cha mẹ con cái phải chăng sẽ được ngồi trên những tuyến metro để đi ra công viên ngoại thành hưởng bầu không khí trong lành bổ phổi? Có lẽ chúng ta phải chờ đợi thật rồi, lên sẵn tâm lí cho một sự chờ đợi dài lâu để xem thành phố chuyển mình sâu sắc.

Bao nhiêu năm qua, người ta thấy thành phố mở rộng không tưởng. Diện tích tăng, dân số nhảy vọt. Đi ra đường không hiểu phải hỏi ai vì đâu mà người và xe đông thế... Đó có vẻ như là một quá trình giải trung tâm hóa, khi người giàu rủ nhau ra ngoại thành, tìm cuộc sống yên ấm bên trong những lớp gác chắn có bảo vệ, camera cùng chung cư cao cấp hay biệt thự. Nhưng những người đó vẫn phải bò vô trung tâm mỗi sáng, để có một cuộc sống đô thị, thực hành nếp sống thị thành chen chúc không thể rũ sạch. Sáng kẹt xe, chiều kẹt xe. Giải trung tâm thất bại, hay đúng hơn là thất bại theo cách người ta lập kế hoạch, mong muốn một thành phố bớt chật chội, bớt căng thẳng. Con quỷ nhây nhớp khổng lồ sẵn sàng vỡ vụn đã vươn những cái vòi của nó về phương Nam, trên một nền đất trũng vốn ngập nước, vươn lên phía Đông Bắc bằng những mạch máu dài ngoằng nhiễm bệnh, tìm ra rìa phía Bắc của cơ thể nó để tống khứ chất thải và ô nhiễm... Chỉ cần nó cố gắng đứng lên, mọi thứ sẽ bục xì nổ tung không còn gì cả.

Ngay những giây phút đó, có một diễn biến khác đang xảy ra, một quá trình phá bỏ trung tâm thật sự. 
'Đây là sự phá bỏ, chứ không phải giải thể và tái lập. Đây là sự phá bỏ, chứ không phải giải thể và tái lập...'
Một âm thanh cảnh báo vang lên, lẫn vào tiếng động cơ, tiếng cười nói, tiếng xe cảnh sát, xe cứu thương, xe chữa cháy cùng hàng vạn tạp âm khác. Không ai để ý, không ai nhận ra, người ta bỏ qua...

Đó là sự giải thể về văn hóa, về truyền thống, về giáo dục, giải thể cái tinh thần của xã hội. 

Trở lại câu chuyện Thảo cầm viên Sài Gòn, tương lai đây, không hiểu người ta sẽ giới thiệu những gì khi vườn cây tuyệt diệu vùng nhiệt đới này dời sang nơi khác? Ắt hẳn người ta không thể bảo rằng vườn cây mới nằm trong quy hoạch thành phố từ ngày đầu, khi mà những gốc cây cổ thụ từ cánh rừng nguyên sinh được tính toán giữ lại trong quá trình xây dựng. Người ta cũng không thể dạy bảo con cháu tí gì về lịch sử khi không có trước mặt một hiện vật sống động. Hay bởi sử giấy nghe đỡ lợm giọng hơn sử thật? Vườn cây mới, làm sao có thể gắn kết lịch sử với hiện tại, thiên nhiên với con người một cách hoàn hảo như Thảo cầm viên Sài Gòn đã làm? Chẳng có lẽ nào cho thuật hùng biện thắng mãi. Một không gian bị giải tỏa, một chức năng bị bỏ phế. Thành phố này đã có một Suối Tiên kệch cỡm, một Đầm Sen lộn xộn và cả tá thứ vườn cây lố nhố mà mỗi lần viếng thăm là mỗi lần vật lộn. Thêm một cũng chẳng sao, còn bớt một thì thật là náo nhiệt.


Nhưng Thảo cầm viên không phải chỉ là vấn đề liên quan đến một cái vườn cây. Nó nhắc cho ta nhớ về tự nhiên, về sự tự nhiên hóa của những thứ nhân tạo. Có bao nhiêu người, rồi đây, sẽ còn nhớ sự xâm lấn của cây cối trên mái nhiều chung cư cũ? Chúng đang cố nhắc nhở chúng ta: thiên nhiên ở rất gần, thiên nhiên sẵn sàng nuốt trọn ổ bầy hầy của loài người, nhắc nhở về một xứ mưa nhiệt đới với lịch sử thuộc địa gian lao và anh hùng. Không biết bao nhiêu cư dân của thành phố này có nợ máu với lịch sử đến độ phải xóa cho kì sạch từng dấu tích nhỏ nhất? Nhất là khi đó là quá khứ mà chiến thắng thuộc về chúng ta, chiến thắng mà chúng ta cần phải giáo dục các thế hệ sau nữa. Người ta đập bỏ một Eden hài hòa, trầm mặc trong cảnh vật để rước lấy một tòa nhà thô thiển, chói chang, nhớp nhóa với những cánh cửa sơn nhũ như đồ giả còn kính màu thì như nhựa tổng hợp. Nhìn nó trong không gian chung quanh thật phải thốt lên rằng chẳng tự nhiên tí nào cả!

Tuy vậy, một thứ xảy đến ra rất tự nhiên, đó là quy mô của dòng người lui tới. Trung tâm thành phố được thêm cơ hội đông đúc, cả đêm lẫn ngày, không một giây ngơi nghỉ.

Tại sao lại phải nói nhiều về thiên nhiên vậy? Vì người ta đang phá hoại những thứ rất tốt trước khi người ta nhận ra. Khi theo xe xuôi từ cao nguyên phía Tây xuống đồng bằng, để về thành phố, có thể thấy một cảnh tượng ngoạn mục, hơn tất cả núi đồi, suối đèo, hơn cả sự cải tạo vĩ đại của con người đối với thiên nhiên. Đó là sự thay thế những cánh rừng lá kim trên cao nguyên bằng những tán lá của cây dầu và nhiều loài cây lá rộng miền đồng bằng. Đó là cảm giác về nhà, trở về nơi ấm áp, yên bình đầy yêu thương. Dù cho thành phố này, trong lịch sử của nó, là một nơi tiếp nhận dân cư, dung hòa mọi khác biệt, nó vẫn là một vùng đất mang đầy nét riêng, mà những người ngụ cư, những người không sống chết với nó, những người mang tuổi trẻ ập đến rồi cùng của cải theo tuổi già ra đi, không bao giờ hiểu nổi.

Có loài cây nào cao hơn, giúp sức nhiều hơn trong việc tạo hình thành phố như cây dầu, cây sao của xứ đồng bằng này? Long não? Không! Bằng lăng? Không! Xà cừ? Buồn thay, cũng không! Người ta vẫn thường nhắc lại mẫu hình phương Tây rồi cho rằng thành phố này chỉ là thứ sao chép. Nhưng chính những hàng cây con con mới trồng kia nhòm mới thật giống đồ chơi làm sao... Một thứ thẩm mĩ mới chăng? Nhưng rời xa thiên nhiên quá, lạ quá, thiếu hiểu biết quá! Đi khắp các tuyến đường, mới thấy rõ cảnh tượng thành phố đang vật lộn để giữ lại cảnh quan tự nhiên, trạng thái bản xứ của nó. Chân thật và hiền hòa che chở những cuộc đời nhỏ bé.

Vậy là chúng ta đang sống những giây phút cuối cùng của một thành phố phi tự nhiên, được cứu rỗi bởi cái vườn thiên nhiên sắp bị phá. Hãy làm ơn tiếc nuối. Hãy làm ơn hối lỗi. Nhưng việc chuộc lỗi không phải là quy hoạch mọi thứ lại từ đầu, không phải là giương cao ngọn cờ 'Phát triển'. Nếu ngành quy hoạch không làm nổi, thì đó là một nỗi nhục nhã chưa từng có. Mà nếu như vậy thật, có lẽ cũng cần lật lại lịch sử, dù có đau đớn, để tìm cho rõ danh tính, nguồn gốc của những kẻ tay nghề thấp, chân leo cao phải chịu trách nhiệm tạo ra ngày hôm nay, thích vào trang thời gian những lời phê bình đắng chát nhất.

Có thế có, mà cũng có thể không, tương lai của chúng ta, một thành phố trắng về văn hóa, về lịch sử, về giáo dục, về những gì quý báu nhất. Phát triển như vậy là hoàn tất!


Thứ Ba, 26 tháng 5, 2015

00:10 26/05/2015

Tôi phải vội vàng công bố những điều này, trong trạng thái chưa hoàn chỉnh, bởi cuộc đời có nhiều khi đổi trắng thay đen. Tôi không thiết gì nhiều, chỉ không muốn người khác trục lợi trên sự cố gắng của tôi.

---

Sự so sánh đi từ mức độ hẹp của kĩ thuật đến nhìn nhận rộng hơn về tác phẩm, phản ánh mối quan hệ giữa kĩ thuật và hình thức - nội dung tác phẩm. Từ đó cho thấy hình thức biểu hiện trong nghệ thuật Đồ họa thống nhất và đa dạng, là kết quả tất yếu từ sự thống nhất và đa dạng của các kĩ thuật in ấn. Dù cho các kĩ thuật in ấn có dựa trên bản chất khác nhau, thao tác tiến hành là hoàn toàn riêng biệt theo từng loại hình, nhưng đều thể hiện chung những tính chất cơ bản. Đó là tính liên tục của vùng mực, tính đồng đều trong lớp mực và lực in tạo ra chất mực dày – mỏng, đặc – xốp trên giấy, quyết định độ thành công của tác phẩm, chuyển tải cảm xúc, suy nghĩ của nghệ sĩ.
          
Mỗi so sánh mang ý nghĩa chỉ ra sự giống và khác nhau, cũng đồng thời xác lập một cơ sở cho việc phân loại. Như vậy, dựa vào những tính chất quan trọng biểu hiện ra trong quá trình thực hành, có thể tái phân loại các phương pháp in ấn trong nghệ thuật Đồ họa, tạo nên góc nhìn khác cho vấn đề đã cũ.
          
Dựa vào sự xác lập các vùng trong cách chế bản, tính liên tục cao của vùng có mực và vùng không có mực trong phương pháp in nổi, in lõm, in xuyên màng giấy và in độc bản khiến chúng xích lại gần nhau hơn về mặt biểu hiện. Khả năng biến đổi linh hoạt của cách in lụa (lưới) và in thạch bản, in offset đều dựa vào các điểm hạt trong cấu tạo của vật liệu, khiến hai cách làm này có vẻ chung một ngôn ngữ tạo hình.
          
Dựa vào tính đồng đều của lượng mực in được cung cấp, cách bôi và chùi mực trong phương pháp in lõm và in độc bản đóng vai trò tạo hình không kém công đoạn khắc – ăn mòn. Điều đó được chứng minh rõ ràng hơn trong lịch sử khi phương pháp in độc bản có sự phát triển từ việc bôi và chùi mực cho các bản khắc kim loại. Tính đồng đều cao của mực được đòi hỏi trong cách in thạch bản, in lụa (lưới) và cả in nổi, đi kèm với sự đều đặn của lực in. Tuy nhiên, có thể áp dụng lực in chủ động bằng tay cho bản khắc gỗ, cao su, thạch cao…, tạo ra kết quả dày mỏng, đặc xốp khác nhau của mực trên cùng một bề mặt tranh. Đó là trường hợp riêng mà biểu hiện của phương pháp in nổi có nét tương đồng giới hạn với in độc bản và in lõm.
          
Lực in đều dường như là một yêu cầu quan trọng trong hầu hết các phương pháp in ấn, vì điều đó đảm bảo toàn bộ hoặc hầu như đầy đủ lượng mực cần thiết được chuyển sang bề mặt giấy, tạo ra chất riêng của tranh in. Mỗi thể loại đều được tối ưu hóa việc in ấn bằng một máy in chuyên dụng. Phương pháp in theo truyền thống phương Đông cũng như phương pháp in không cần lực ép của máy là những cách làm đơn giản và thủ công hơn. Các thể loại tìm thấy như khắc gỗ, in độc bản dùng lực của tay hay sức thẩm thấu của giấy ẩm đều sử dụng mực hay màu gốc nước. Điều đó khiến chúng dường như đứng riêng về một phía so với các thể loại còn lại.
          
Tái phân loại giúp nhìn nhận các phương pháp in ấn đã có theo một khía cạnh khác. Trong sự phát triển hiện nay, nhiều trường hợp thực hành không chỉ tuân thủ một phương pháp duy nhất nào. Ví dụ cách in collagraph, tận dụng cả phần lõm và lồi trong quá trình tạo bản, vừa bôi – chùi mực vừa lăn mực để tạo màu. Vùng mực liên tục khắp mặt giấy với độ dày mỏng đa dạng, độ trong suốt của mực thay đổi từ nét đến mảng là một minh chứng cho khả năng sử dụng cùng lúc các phương pháp có bản chất khác nhau.

         
Tóm lại, phát triển là điều tất yếu theo quy luật trong thế giới nghệ thuật nói riêng và nghệ thuật Đồ họa nói chung. Ngày càng có nhiều phương pháp in mới, kĩ thuật mới, vật liệu cải tiến được áp dụng. Nhưng in ấn vẫn là một công việc không thể thay đổi với những tính chất nhất định của nó. Việc sử dụng cách nào để in, cuối cùng không phải là một sự lựa chọn kĩ thuật hay chất liệu, mà là sự tính toán để đảm bảo các tính chất của in ấn thể hiện với mức độ được mong muốn.