Thứ Năm, 1 tháng 10, 2015

chuyện ở xứ xa

Thực sự những lý thuyết mà người ta dạy cho sinh viên ở trường chẳng bao giờ là đủ. Lý thuyết, hay chỉ là một cách lý giải và thuyết minh, rõ ràng phụ thuộc vào mục đích và ý đồ cùa người lên tiếng. Vì vậy, không lạ gì khi ngoài thực tế, sự vật thật, con người thật và sự kiện thật khiến ta bỡ ngỡ.

Văn hóa là thứ hiện thực, nhưng lại dễ dàng đánh lừa kẻ nào không muốn biết. Đâu nào có ai, chưa từng có ai nói với tôi về những người thượng trên cao nguyên Di Linh này. Chỉ có những thứ có giá trị, thu được lợi nhuận tối đa và tiềm năng khai thác rộng lớn mới được chào đón trong sách vở. Vì vậy trên con đường về tới Fi-nôm, D'ran, Trạm Hành, Phát Chỉ, Cầu Đất, Trại Mát và xa xôi hơn cả là Đạ Nghịt, những gì tôi đã thấy là những gì khác lạ nhất. Đấy mới là đời sống. Những khuôn mặt xa xôi và khó hiểu, cách suy nghĩ, ăn nói và cách thức tạo dưng cuộc sống, gắn bó liêu hết với nhau, len lỏi giữa đôi tay cần lao giữ gìn sức sinh tồn mãnh liệt.

Từ từng đoạn đường đất đến những mảnh ruộng trồng rau màu, hoa kiểng đủ các sắc thái màu sắc khác nhau đều là sản phẩm của bàn tay lao động. Trong cái trạng thái cài răng lược vào giữa núi, giữa rừng, thôn xóm ở khắp xứ cao nguyên này chơi trò trốn tìm với người từ xa đến. Nơi dốc đèo, tôi thấy nhà cửa ruộng vừa đấy, nhưng chỉ cần xuống sâu hoặc leo cao một đoạn, lại chỉ có rừng cây và sườn đất đá trơ trọi im lìm. Con người len lỏi vào bất cứ mảnh đất nào để sống. Vùng dốc thì cào thành từng bậc thang, xắn đất mà trồng rau, trồng cà phê, trồng trà hoặc hoa, thu lại giá trị kinh tế cao.

Nhưng giá trị kinh tế cao, phục vụ công nghiệp chế biến, làm mặt hàng xuất khẩu hay đặc sản địa phương gì đó, cũng chỉ là cách nhìn của phường con buôn, của những người thu được nhiều đồng lời nhất hay là của các nhà khoa học. Chưa từng có một người dân nào nói với tôi rằng nông sản họ trồng đây giúp cho họ đạt được điều gì lớn lao. Một người thợ lột vỏ dừa, dệt thảm xơ dừa ở Bến Tre một ngày kiếm từng độ hai chục ngàn. Vậy còn nhưng đồng bào dân tộc ít người ở Đạ Nghịt này cả mùa cầu khẩn Thiên Chúa của họ, nương tựa niềm tin và nhà thờ Tin lành xây kiểu mới này, trừ cả vốn lẫn công, bỏ qua điền sản, cuối cùng họ được từng bao? Người phụ nữ có nước da ngăm và mái tóc dường như khô khốc vì bụi các bán tạp hóa ở thôn ấy nói rằng những căn nhà xinh xinh ở phía ngoài thôn là của người Sài Gòn. Người Sài Gòn lặn lội lên miền ngược mua đất đề trồng cà phê? Đó là điều tôi thật sự băn khoăn. Bản thân chị bán tạp phẩm trong thôn ở trong một căn nhà to bằng gỗ. Vách nhà được dựng theo hai chiều nằm và đứng, Từ đất lên độ sáu tấc, ba thanh gỗ dài đặt nằm, làm phần bệ bên dưới cho những thanh gỗ ghép đứng phía trên. Nhà của chị gái xem chừng thuộc cỡ to trong thôn. Có nhiều nhà chỉ có một cửa ra vào cũng một cửa sổ, nhưng nhà của chị có hai của sổ. Một bên cửa sổ đã bị tháo cánh nhằm phục vụ buôn bán. Hàng hóa treo lủ khủ có thể nhìn thấy từ ngoài qua ô vuông đó. Tất cả nhà gỗ ở đây đều chỉ có một tầng trệt còn nhà gạch thì cao hơn. Với sơn nước nhiều màu, ốp gạch hay đá lát, đó có vẻ là nhà của người Sài Gòn theo lời chị chủ quán. Hoặc giả là có những người ở Sài Gòn lên đây đầu tư thật, chịu đựng cái khắc nghiệt của vùng núi mà ở lại (thường nhà đầu tư thuê người quản lí cho tiện hơn), hoặc giả 'người Sài Gòn' chỉ là một cách nói ám chỉ dân ngụ cư đến đây với rất nhiều tiền cùng với cách sống khác lạ, thì điểm chung lại cốt yếu của lời lí giải vẫn nằm ở khối tài sản của người đến v mong muốn đạt được sự sung túc của người vốn ở đây. Những người ở thôn này, chỉ có họ mới có lý do cho việc mong muốn xây được một căn nhà gạch có lầu, ban công và sân lát đá. Tôi không thể nói vì chúng 'xinh' hơn thật chăng, sạch sẽ hơn và tiện nghi hơn chăng. Và điều đó có vẻ như nằm trong khoảng không gian của những thứ không được hỏi.

Bán hàng xong, ch chủ không chờ cho khách đi khỏi đã bước vào trong. Đôi dép của chị chùi bụi đất để lộ ra màu xám của nền xi măng tráng phẳng. Chiếc váy dài đến quá mắt cá chân của chị sột soạt làm bụi tung lên. Một chiếc váy thật dài, may bởi loại vải hoa thông thường và không hề có vẻ gì là kiểu cách. Tôi nhìn thật kĩ cũng chưa thể nhận ra nơi chiếc váy đó có gì tôn lên vẻ đẹp của cơ thể con người. Rõ ràng là nó được may bởi một lối khác, không thuộc về những thứ gọi là thời trang, văn minh thành thị. Tính trang trí của thứ phục trang ấy ắt hẳn cũng đã giảm đi nhiều bởi hoa văn nhuộm công nghiệp và màu sắc phơn phớt theo gu thanh nhã đồng bằng. Không còn một tấc thổ cẩm nào. Nhưng ở một thôn sơn dã, với máy móc đang đào bới ngày đêm, với gạch đá chở ngược về núi, lựa chọn một lối sống cho phù hợp với tốc độ phát triển dồn dập vẫn là chuyện cần quan tâm hơn cả. Chỉ có người già không cần mấy đến tiền, đến nhà cửa mới không hối hả thay đổi như vậy. Làm sao để khi đi đến cuối sườn dốc bên kia của cuộc đời, còn có đất mà nằm, còn có quần áo mặc cho ông bà tổ tiên nhận ra mình quả thật chỉ là việc của người già mà thôi. Bên cạnh bụi đường bốc lên bám dính với đồ đạc, có những người đang chờ đợi một ngày hóa thành bụi mỏng mà bám lại vào đất đai, đồi núi, cây cối và rừng xanh.

Một bà lão trong thước thổ cẩm đen nép bên hàng rào làm bằng dây phơi quần áo nhìn ra con đường bê tông trắng hếu đang bị bụi đất che phủ dần. Con đường bê tông trong thôn ấy còn chưa hoàn tất, những vườn cà phê cây mới ngang bụng người. Giữa núi rừng xanh thẳm, nhà cửa cùng đất đai dường như trơ trọi. Khi chưa có đường, người ta bám vào rừng để sống. Có đường rồi, người ta nương vào xe máy, xe ô tô để gắn kết với thế giới bên ngoài. Xi măng, sắt thép, gạch đá đã bắt đầu được chở lên. Cuộc sống giờ đây vươn lên trên một nền móng khác. Từng viên đá hộc kè vào, từng mét vuông xi măng tráng là từng nỗ lực, từng cố gắng bám trụ. Đôi chân cứ phải tiến tới, đôi tay cứ phải làm. Thay đổi có cái giá của nó, mà rẻ nhất là tính bằng nỗ lực: lớp người đi trước đến lớp người đi sau, cho một tương lai dài lâu.



Hầu hết các thôn, các ấp ở đây đều chỉ có một con đường. Đó là phải đi lên, làm lụng nhiều hơn, xây dựng nhiều hơn nữa và chỉ có một con đường cho xe cộ, người ngựa qua lại. Đó là thứ gì tất yếu thì phải? Một thứ gì đó thuộc về quy luật của lịch sử, của cộng đồng con người. Dù ở miền nam hay miền bắc, cũng chỉ có một lối đi như vậy, một bề nổi cho tất cả mọi thứ. Những cung đường dốc đi qua Trạm Hành, Phát Chỉ, Cầu Đất làm tôi nhớ về những vùng xa xôi được miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Tiếng chim hót trong bụi mận gai. Những vùng mênh mông đó được xây dựng chỉ nhằm một mục đích làm ra tiền của. Để ở, để sống, để hạnh phúc không phải là cái người ta ngắm đến. Sở trà dành cho công nhân trồng trà. Thái Phiên là ấp của các hộ trồng hoa... Người ta gặp gỡ nhau, yêu thương nhau, tạo lập gia đình, bạn bè, bù đắp cho nhau những thiếu hụt về tinh thần là chuyện tất yếu và là chuyện của phút nghỉ ngơi, của buổi đêm hay sau mùa thu hoạch. Như Lỗ Tấn đã viết rồi đấy, trên thế gian ban đầu làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi, con người lúc đầu làm gì có tình, ở bên nhau mãi mới thành người thân. Cũng vẫn chỉ có một lối ấy mà đi.

Và cũng bởi chỉ có một lối để đi đến các thôn ấp ấy, nên kết quả tất yếu và chắc chắn là không ai tìm đường đi vòng thật xa để lên Đà Lạt trong khi có lối gần hơn. Con đường qua đèo Prenn đã không còn hoang sơ như trước nữa. Lối rẽ bên kia, văn minh của thời đại internet đã về tới, nhưng cái ưa chuộng của con người vẫn còn quanh quẩn bên hàng hóa, cà phê và xe tải. Những chuyến đi cứ vượt dốc và xuôi đèo, đếm thời gian trên cao nguyên bằng tháng cùng năm, cứ đi mãi đi mãi mà chẳng để lại gì nhiều. D'ran chín giờ sáng, nắng tràn ngập mọi nơi, có ba người phụ nữa mặc nhiều áo khoác, đội nón đeo khăn che kín mặt đi từ đường xa vào quán cơm chay. Quán cơm này có dấp dáng của một quán cơm bình dân thôi. Dù cho giờ đấy ở Sài Gòn, có hôm tôi còn chưa dậy, thì ba người đàn bà ấy đã vào để ăn trưa và nhà hàng cũng sẵn sàng để phục vụ chu đáo. Tựa như những con người này bắt đầu một ngày từ ba giờ sáng, nên họ rất đúng phép tắc cho bản thân được nghỉ ngơi đôi chút giữa cơn nắng cao nguyên. Có hai người phụ nữ ngồi quay lưng lại với tôi, ngước nhìn qua vai hai cô này, tôi có thể thấy người còn lại khá rõ.

Người đàn bà còn lại bắt đầu gỡ nón và khẩu trang trùm kín mặt. Cô ta chưa quá lớn tuổi, có một khuôn mặt dài, đôi mắt dài và cặp lông mày nhợt nhạt. Mặc dù tóc được chải ngược hết về sau, nhưng vẫn có nhiều sợi ngắn hơn xòa xuống trán, tạo thành một bộ mái lưa thưa. Răng cô này không đẹp, nhưng tóc thì dài dù cho nó có bám bụi. Đấy là điều không thể tránh khỏi rồi. Dáng cô xem ra cao ráo và thon gọn nếu không phải nói rằng hơi gầy, còn hai người đồng hành của cô thì lại không được như thế. Có lẽ bởi cô biết thân hình của bản thân như thế, nên mới thích thú đánh mắt sang bên kia đường mà nhìn chiếc đầm màu đỏ trong tiệm may. Không ai trong quán để ý đến tôi, nên tôi có thể quay mình lại mà xem xét cái tiệm ấy. Có vẻ như nó chiếm một mặt bằng không rộng rãi mấy, được cắt ra để cho thuê. Có một con ma nơ canh đứng sau lớp kính đang vận cái đầm dài thướt tha màu đỏ tươi. Người ta có thể thấy đâu đó cái lối Sài Gòn ở khung cửa kính. Tôi không rõ bên trong cửa tiệm có máy lạnh hay không. Mà có lẽ ở trên cao nguyên này, lắp máy lạnh là điều không cần thiết. Người ta cần đèn hơn, để sưởi ấm cho người y hệt như cho lũ gà con. Trở lại khung cửa kính, tôi xin phép bàn lan man ra một tí. Ở Sài Gòn, không quá lâu đâu, mới rộ lên cái mốt cửa kính cao đụng trần ở các quán cà phê. Và cái lối ấy mốt thật, khi có rất nhiều các quán mới mở học tập lẫn nhau. Nó cho phép người ta nhìn nhiều hơn, từ đường vào và từ trong nhà ra, làm lộ hẳn cái vẻ kiểu cách của thành phố, mà nhìn vào ta không thể không nhớ đến những bức tranh vẽ các xứ New York hay Paris tráng lệ: quý ông, quý bà, nam thanh nữ tú lắc lư, say ngà ngà bên ly rượu hay vại bia, vui vẻ cười đùa rôm rả. Người ta cố tình như vậy đấy, để cửa hàng của mình sang hơn nhà kế bên, để khách của mình vào có cảm giác ở một đẳng cấp cao hơn nhà kế bên.

Tôi cảm thấy thú vị. Không phải chuyện thời trang xoay vòng, mà là việc con người rất hay bị thu hút theo cách giống nhau. Làm sao bạn có thể cho rằng một khung cửa kính ở cái trấn D’ran xa xôi và một ở giữa lòng Sài Gòn lại có cùng tính chất? Nhưng tôi thì hoàn toàn đồng ý điều đó. Có những con người nhanh nhạy, đánh hơi được cái mới. Cũng có những con người kiên định, giữ gìn cái nếp cũ từ trước tới nay. Tuy vậy, thành công hay không chẳng phụ thuộc vào tí tinh ranh ấy. Một khung cửa có khi rất nguy hiểm, khi nó mang trong mình ý nghĩa gợi mở, là điểm tựa, là cái chốn neo vào của hai cán trong chiếc cân. Hai thế giới đối lập nhau, trong và ngoài sẽ bị đem ra đong đếm. Nếu bạn còn nhớ Edward Hopper, ắt bạn phải nhớ những bức tranh của ông ta. Hội không chính thức những người yêu tranh toàn cầu đã không phải bàn cãi thêm gì nữa về sự im lặng trong tranh của nhà họa sĩ: một xã hội không có cái hồn như bề ngoài xa hoa của nó. Và tất cả hầu hết được nhìn qua từng ô cửa!

Dĩ nhiên rằng không một ông bà chủ nào muốn khách của mình suy nghĩ lôi thôi như thế. Người ta chỉ muốn tận dụng cái phong cảnh thành phố lãng mạn mà tạo cảm hứng cho khách thôi. Và gắn kết chặt chẽ vào đấy, phong cảnh thành phố không bao gồm các loại tiểu cảnh sau: người vô gia cư, người ăn xin, người bán hàng rong hay các mợ sồn sồn mặc quần đùi đi chợ… Vậy nên, vẫn có những người đầu tư tìm cho được một căn gác có ban công thoải mái với tầm nhìn thu được kha khá góc đẹp, có đôi cửa sổ thi vị lại hứng được gió trời, chiếm sẵn thế đắc địa trong bản đồ văn hóa, kiến trúc và lịch sử để mở hàng quán. Và các ông bà chủ vào loại này có thể đôi phút giây nào đó, tự sung sướng rằng mình có đầu óc hơn đám người vẫn cần chường mặt ra đường cho thiên hạ ngó vào, lại dựng cửa kính để đến cái toilet cũng bị trông thấy.

Và những gì bên trong quán cà phê có khung kính cao rất dễ bị nhìn thấy theo đúng cái cách người đàn bà ở trấn D’ran nhìn cái đầm màu đỏ. Từ lúc không còn che kín khuôn mặt cho đến khi tôi nghe cô cất tiếng là một quãng thời gian đủ dài cho một người ngắm nghe kĩ lưỡng cái họ thích. Mắt cô nhìn đăm đăm, cổ dường như cứng đơ không chuyển động và cái miệng thì đang mấp máy nói gì đó trong vô thức. Đến chừng như kết luận được rồi, cô ấy bảo với hai người còn lại rằng cái đầm đó thật đẹp, cái đầm màu đỏ nhìn sang. Một loạt ý kiến gì sau đó mà tôi nghe không tường cho lắm, nhưng chắc chắn có hai chữ ‘dạ hội’ đã bật ra. Tôi phải nhìn cô này thêm lần nữa, thật chậm và nếu có thể nhìn được cả hai người kia, tôi cũng sẽ làm như thế.

Tôi không còn quá lạ lẫm với việc người ta có rất nhiều đất, trồng trên đấy đầy gỗ quý, cà phê, trà hay ca cao. Số tiền thu được khi mùa màng tốt đẹp không phải là ít. Dù cho mất mùa là chuyện tệ hại, nó như việc niêu cơm đang chín bị dính bùn, thì cũng đừng quên rằng người thành phố bình thường không mấy ai thấy được của cải theo đúng nghĩa đen của câu ‘rừng vàng biển bạc’. Tuy phút ấy tôi còn ngồi chung với ba người phụ nữ kia, nhưng những con số mà họ nghĩ tới đã bay lên tận cung trăng rồi. Và đi chung với những con số ấy trên chiếc phi thuyền ắt hẳn phải có hai chữ ‘dạ hội’. Tôi lại chưa từng hiểu được chính xác nghĩa cái từ ấy nói đến. Nó chỉ nhắc nhớ tôi vài kỉ niệm đã thật lâu rồi. Ngày tôi còn bé, mẹ tôi vẫn ngồi may bên cái máy khâu đạp chân nghe lọc cọc suốt trưa chủ nhật, trong khi trên truyền hình người ta phát chương trình thời trang có cô giới thiệu là diễn viên kèm ca sĩ gì đấy. Giọng cô này thì đều đều, giống như buổi trưa vậy. Một cách nhàm chán tôi đưa mắt lên cái máy vuông và đen, vờ như mình quan tâm lắm để tránh khỏi phải ngủ. Người ta giới thiệu hết hiệu này đến hiệu kia, các loại quần áo mũ nón may sẵn, thích hợp cho người đi làm, thiếu nữ, bà nội trợ, cho quý ông và dĩ nhiên là cả loại trang phục dạ hội. Tôi chỉ còn nhớ được cảnh quay giữa một khu vườn biệt thự nào đó, các cô mặc từng cái đầm như từng cục màu trong hũ trút ra và đi qua đi lại, đánh một vòng trước khán giả rồi biến mất. Thực tình tôi không thể nhớ gì hơn, ví dụ như tại sao tôi lại nghĩ đó là ‘cục màu trong hũ trút ra’? Có lẽ vì nó vàng là vàng còn đỏ là đỏ. Những chiếc áo dài đâu tiên tôi thấy đẹp là áo của bà nội và bà ngoại tôi. Một lớp nhung huyền sẫm tối mà lại ánh lên nhiều màu trông thích mắt. Đó là cái áo của bà nội. Một lớp vải sờ vào có vẻ sần nhưng mỏng và nhẹ và nhuộm màu xanh rêu man mát. Tôi thấy bà ngoại cắt tóc ngắn, những sợi bạc ánh lên như kim loại, môi đỏ tươi vì ăn trầu và mặc chiếc áo đấy cùng với quần thâm đen. Trầm lắng hay vui vẻ, tôi đều thích cả. Nhưng dù rằng quy củ hay nổi loạn, một cái áo không phải là cục màu trút ra từ hũ được.

Tận bây giờ, tôi vẫn không biết dạ hội là cái gì trên đời này. Có phải là một khu vườn có các cô các bà vừa ăn uống vừa đi lại trong những đầm lướt thướt như chương trình truyền hình năm nào? Ở đó người ta sẽ nói chuyện quan trọng gì, mua vui cho nhau như thế nào? Liệu có phải là dò xét nhau để định đoạt giá ca cao mùa tới hay không? Và có khi nào người ta bỏ ra hết khỏi đầu hàng dãy số loằng ngoằng chỉ để vui chơi cười nói? Nhưng không thể không ở đâu đó, một chút ganh đua và hầm hè nhau để xem ai mới thực sự là người giàu có. Những người giàu mới nổi, ở cái trấn D’ran này không biết có bao nhiêu người! D’ran và dạ hội, tôi không thể nghĩ ra được mức độ náo nhiệt khi liên kết hai nội dung ấy với nhau. Hoặc không thể chối được rằng tôi chẳng biết gì về những thứ như vậy, hoặc tôi chỉ băn khoăn không biết phú quý ở vùng này gấp bao nhiêu lần cái thước đo mà tôi có sẵn.

Bà nội tôi từng kể cho tôi nghe một câu chuyện chẳng có mấy nội dung nhưng cực kì ấn tượng. Hà Nội ngày trước rất nhiều người giàu, không chỉ có tiền mà còn có đầu óc. Trong cái thú ăn chơi cũng như bày tỏ tình cảm, người Hà Nội thuở ấy chẳng thua kém ai bao giờ. Một bà mới góa khi đó đã bỏ mặc tất cả dư luận, nào là xã hội lai căng, tư tưởng thuộc địa phong kiến để làm một buổi cảm ơn, trả lễ cho tất cả những người đã đến chia buồn. Trong buổi ấy, ngoài lời nói, bánh quy và cà phê đen thì chẳng còn gì nữa, trừ bột vàng. Bột vàng thật nhuyễn đã được người ta chuẩn bị không sai lệch, rắc lên trên mặt cà phê. Tôi không biết bạn có hình dung giống như tôi đã làm chăng? Một bữa tiệc với màu đen trên y phục, quần áo theo kiểu Pháp lẫn kiểu ta và vàng trôi vào bụng. Dù là bụi vàng thì nó vẫn là vàng, đúng không nhỉ? Vật chất có đáng giá đến mấy, miệng ăn núi lở rồi cũng không còn. Có lẽ cái ông nhà văn Nguyễn Khải đã quá nhọc công tả cho được hạt ‘bụi vàng’ biết thở của ông ấy, mà không hay biết đến hạt bụi vàng chân thật nằm trên mặt cà phê. Bởi nếu ông đã nghe qua câu chuyện của bà nội tôi thì chẳng tội gì phải dài dòng văn tự đến vậy. Về cơ bản, người Hà Nội phức tạp: kiêu kì mà khiêm tốn, dè sẻn mà hào phóng. Về cơ bản, con người phức tạp. Dĩ nhiên chỉ một người đàn bà ở D’ran thôi cũng đủ phức tạp rồi.

Mãi mãi có lẽ chẳng bao giờ tôi quên được sự lạ lùng này. Cảm giác ấy y hệt như lúc tôi rời khỏi con đường chính, chọn một lối rẽ để đi xuống thăm thú ruộng vườn bao quanh trấn. Dưới thung, tôi đã thấy rặng núi xanh đến kì lạ, và ngọn khói trắng nằm ngang là đà trên từng luống rau xanh. Tôi đi theo hướng ấy, lựa một con dốc nhỏ để leo lên đường chính. Rặng núi không ở lại mà đi cùng, rồi vượt lên trước mặt. Nó vẫn xanh rì dưới ánh nắng. Và tôi hiểu có những thứ trải qua rồi, sẽ không mất đi mà cùng với ta ngao du mãi trong cuộc đời, thành một niềm ám ảnh. Còn thứ dễ mất đi thì được ta nhớ mãi, như đám khói đã nằm trong máy ảnh của tôi rồi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét