Tính phân chia là tính chất tất yếu của các thành phần trong một hệ thống. Nói cách khác, không phân chia thì không có hệ thống. tính phân chia của hệ thống còn cho thấy mức độ to lớn của hệ thống, sự liên quan của các thành phần đó với nhau. Không có tính phân chia thì hệ thống không có ý nghĩa.
Nói đến tính phân chia là nói tới các thành phần của một hệ thống. Rõ ràng tính phân chia không phải là tính khác biệt hay tính phân hóa, nó đơn giản hơn nhiều so với những tính chất vừa nêu. Mỗi thành phần trong hệ thống có một chức năng riêng, hoạt động và liên kết riêng, nhưng trước hết thành phần dó phải là một thành phần. Có nhiều loại thành phần khi xét theo nhiều tiêu chí: câu trúc, chức năng hay vị trí... Không chỉ vậy, chỉ cần xét một tiêu chí bất kì, cũng có thể thấy được tính phân chia: không gian, thời gian, kinh tế hay văn hóa... Tiêu chí ấy thậm chí có thể là sự hưởng thụ.
Tôi không đề cập tính phân chia như một chức năng của hệ thống. Nó chỉ là một tính chất được biểu hiện ra trong quá trình tồn tại và phát triển của hệ thống. Như vậy có nghĩa là có nhửng thành phần liên quan với nhau về chức năng, có những thành phần đơn giản chỉ tạo ra tính phân chia, hay tương tác với nhau theo lối gián tiếp, tương tác về ý nghĩa. Tính phân chia được biểu hiện ra như vậy là một hệ quả chứ không phải lí do, cơ chế. Tuy nhiên, tính phân chia là một trong các tính chất của hệ thống, biểu hiện chung với các tính chất khác và tương ứng trong hoạt động nhịp nhàng của hệ thống. Tôi xem đó là một hướng cho cách hiểu.
Tôi đề nghị tính phân chia, hay cũng mang ý nghĩa phân biệt, là một tính chất quan trọng không phải vì lí do phân công các thành phần trong hệ thống, hoặc ít nhất không phải chỉ vì như vậy. Tôi đề nghị sự quan trọng đáng ghi nhận bởi sự tồn tại một hiện thực: môi trường sống luôn phân khúc, khác nhau trong những trường hợp khác nhau. Mà đó cũng là lí do cho sự biểu hiện của tính thích nghi: khai thác tốt môi trường sống.
Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2013
Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013
con đường của giấc mơ hay trạng thái đứa bé.
Có lẽ tôi đã bắt đầu mơ từ rất lâu, và cho đến bây giờ tôi vẫn chưa tỉnh lại. Những ngày tháng thật dài trôi đi, trôi quá tầm tay của tôi trong thực tế. Nhưng trong giấc mơ đời mình, tôi vẫn còn đủ khả năng để níu giữ mọi thứ.
Đôi khi, hình hài của tôi hiện ra rõ ràng là một đứa bé. Hay đó là cách tôi xuất hiện trong tâm trí của mọi người, tôi không biết chắc.
"Con ơi, cha đã quên trò chơi mê mải với cành que và chim đất.
Cha tìm đồ chơi quý và thu nhặt những thoi bạc nén vàng.
Tìm được gì, con cũng làm nên đồ chơi thích thú; còn cha bỏ cả thì giờ và sức lực tìm những của có bao giờ được đâu.
Trên thuyền mỏng manh, cha cố chèo chống mong vượt qua bể dục, mà quên rằng chính mình cũng đang diễn một trò chơi."
(Tagore)
Tôi thật sự thấy thích đoạn thơ của Tagore, vì khi tôi 18, tôi bỗng quay ngoắt trở lại thành một đứa trẻ (trong mắt thế gian). Sẽ có kẻ thầm ghen tị với tôi. Ngoài kia, người ta vẫn thường tự an ủi: "Năm nay là sinh nhật 18 tuổi lần thứ mười của mình."
Đứa trẻ cầm que chơi đùa, như nhạc trưởng thần thánh điều khiển thế giới. Đừng phạm lỗi bé ơi, chúa trời sẽ phạt em thành người lớn mất.
"Nếu bé muốn thì ngay bây giờ bé có thể bay lên tận trên trời.
Không phải tự nhiên mà bé không chịu rời bỏ chúng ta.
Bé thích đặt đầu mình vào trong lòng mẹ.
Và mắt bé không chịu rời xa mẹ bao giờ."
(Tagore)
Hạnh phúc không ở đâu xa mà ở ngay trước mắt. Đứa trẻ thấy, và đáng lẽ thế gian đều thấy. Mỗi ngày tôi đều tập nhìn. Nhìn gì và biết nhìn vào đâu?
Tôi nghĩ rằng tôi chỉ có thể nhìn vào giấc mơ. Mơ của tôi và mơ của người. Người nghiên cứu mơ vi khuẩn E. Coli.
Nhưng tôi không thật sự là một đứa bé nữa. Tôi chỉ là một người lớn níu giữ giấc mơ từ lúc còn bé. "Thực tế có thể không phải là sự thật, và sự thật không nhất thiết là cái xảy ra trong thực tế." Tôi đang làm gì?
Đôi khi, hình hài của tôi hiện ra rõ ràng là một đứa bé. Hay đó là cách tôi xuất hiện trong tâm trí của mọi người, tôi không biết chắc.
"Con ơi, cha đã quên trò chơi mê mải với cành que và chim đất.
Cha tìm đồ chơi quý và thu nhặt những thoi bạc nén vàng.
Tìm được gì, con cũng làm nên đồ chơi thích thú; còn cha bỏ cả thì giờ và sức lực tìm những của có bao giờ được đâu.
Trên thuyền mỏng manh, cha cố chèo chống mong vượt qua bể dục, mà quên rằng chính mình cũng đang diễn một trò chơi."
(Tagore)
Tôi thật sự thấy thích đoạn thơ của Tagore, vì khi tôi 18, tôi bỗng quay ngoắt trở lại thành một đứa trẻ (trong mắt thế gian). Sẽ có kẻ thầm ghen tị với tôi. Ngoài kia, người ta vẫn thường tự an ủi: "Năm nay là sinh nhật 18 tuổi lần thứ mười của mình."
Đứa trẻ cầm que chơi đùa, như nhạc trưởng thần thánh điều khiển thế giới. Đừng phạm lỗi bé ơi, chúa trời sẽ phạt em thành người lớn mất.
"Nếu bé muốn thì ngay bây giờ bé có thể bay lên tận trên trời.
Không phải tự nhiên mà bé không chịu rời bỏ chúng ta.
Bé thích đặt đầu mình vào trong lòng mẹ.
Và mắt bé không chịu rời xa mẹ bao giờ."
(Tagore)
Hạnh phúc không ở đâu xa mà ở ngay trước mắt. Đứa trẻ thấy, và đáng lẽ thế gian đều thấy. Mỗi ngày tôi đều tập nhìn. Nhìn gì và biết nhìn vào đâu?
Tôi nghĩ rằng tôi chỉ có thể nhìn vào giấc mơ. Mơ của tôi và mơ của người. Người nghiên cứu mơ vi khuẩn E. Coli.
Nhưng tôi không thật sự là một đứa bé nữa. Tôi chỉ là một người lớn níu giữ giấc mơ từ lúc còn bé. "Thực tế có thể không phải là sự thật, và sự thật không nhất thiết là cái xảy ra trong thực tế." Tôi đang làm gì?
Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2013
lí thuyết và lí thuyết
Chương thứ 7 của cuốn Sinh thái học đô thị (Olivier Coutard, Jean-Pierre Le1vy) viết về thủy văn đô thị. Sau những trình bày về bối cảnh, đặc thù, định hướng... của ngành này, có một điểm làm tôi chú ý hơn cả. Đó là "tính dễ bị tổn thương". Nó gợi lên trong đầu tôi nhiều suy nghĩ về tinh thần mà Sinh thái học/Sinh học đã mang tới (cho đời sống) và ảnh hưởng khắp hết các ngành "mang tính liên ngành" liên quan đến sự sống, thể hiện ở những tính chất quan trọng của hệ thống sống, chứ không phải chỉ ở các quá trình hay chức năng.
1, Tính dễ bị tổn thương
Các tác giả đã viết: "Tính dễ bị tổn thương của đô thị phụ thuộc vào đặc điểm vận hành và hoạt động của thành phố và bao gồm những vấn đề về mặt kĩ thuật, kinh thế và xã hội của thành phố." Nói về tính dễ bị tổn thương trong nội dung về thủy văn là sự đề cập hợp theo logic của các tác giả vì các nghiên cứu về tính dễ bị tổn thương trong nhiều thập niên gắn liền với lũ lụt và tác động của hiện tượng ấy.
Nói về tính dễ bị tổn thương, các nhà học học có nhiều quan điểm. "Theo Christian Kuhlicke quan niệm tính dễ bị tổn thương xuất phát từ một khái niệm về sự không hiểu biết có nghĩa là con người đối phó như thế nào với kiến thức hạn chế của mình." Joanne Linnerooth-Bayer định nghĩa: "Tổn thương là một thuật ngữ phân tích, Tính dễ bị tổn thương là khái niệm được hiểu trong một phạm vi rộng và có quy tắc, bao gồm cả địa lý, rủi ro, hiểm họa, kỹ thuật, nhân chủng học và sinh thái." Nhiều nhà khoa học khác đã phân tích ra rằng trong điều kiện tiếp xúc với một số căng thẳng hoặc khủng hoảng, tính dễ bị tổn thương có nguyên do không chỉ bởi tiếp xúc với sự nguy hiểm mà còn phụ thuộc vào khả năng đối phó của những người bị ảnh hưởng. Khả năng đối phó ấy (một lần nữa trong sự phân tích) là sự kết hợp giữa sức kháng cự (khả năng đối phó các tác động gây hại của mối nguy hiểm và tiếp tục tác động) cũng như khả năng phục hồi tổn thương một cách nhanh chóng.
Rõ ràng tính dễ bị tổn thương phản ánh ngay cho chúng ta một câu hỏi: có sống được hay không? Trước hết là sống, sau đó là phát triển. Tôi muốn nói lên ở đây rằng, trong thời điểm hiện nay, không chỉ các nhà khoa học mà cả những nhà chính trị, rất thích nói về "phát triển bền vững" như đó là tương lai ước mơ của nhân loại. Quay trở lại với nội dung ban đầu, trong những diễn giải trên, các nhà khoa học đã phân tích đến "khả năng đối phó của những người bị ảnh hưởng", "sức kháng cự" và "khả năng phục hồi tổn thương." Có thể thấy chúng đều nhằm vào con người. Trong các trường hợp khác, tôi lại hi vọng có thể xem xét cho các hệ thống sống vốn có chung đặc tính sinh học với con người và được con người hỗ trợ. Mà có lẽ sự thật đã là như thế rồi.
2, Tính đàn hồi và tính ổn định
Phần trên là đôi nét chính yếu nhất của tính dễ bị tổn thương. Điều trước hết mà tôi thấy được là nội dung trên trở thành hi vọng của con người trong việc giải quyết các nguy cơ bất ngờ. Thực tế hệ sinh thái bất kì nào cũng tồn tại với những nguy cơ, các loài sinh vật thành phần trong đó cũng phải tìm cách sống còn với những nguy cơ. Các lí thuyết của sinh thái học đã khắc họa gần như đầy đủ về cuộc sinh tồn đó.
Đối với con người cũng có những điều tương tự. Một ví dụ dễ hiểu đã được trình bày trong "Giáo trình Sinh thái học người" (Nguyễn Hữu Nhân, Hoàng Quý Tỉnh): "Các xã hội ở bãi sông cấu trúc các hệ sinh thái đô thị và nông nghiệp một cách đặc trưng để giảm thiểu thiệt hại do lũ lụt, bởi vì các hệ xã hội phát triển củng với hệ sinh thái của bãi sông. Họ trồng trọt câu lương thực trên những diện tích sẽ không bị ngập nặng. Nếu học trồng lúa, học sử dụng các giống đặc biệt với đủ độ cao thân để giữ những bông lúa nằm trên mặt nước tránh cho mùa màng bị hư hại. Họ xây nhà cao để nước lũ chảy dưới ngôi nhà của họ. Họ dự trữ thực phẩm ở những nơi an toàn để không bị cạn lương thực khi lũ tàn phá mùa vụ; đồng thời họ có các thể chế xã hội để giúp đỡ các nạn nhân khắc phục những hư hại khi lũ lụt thàm khốc bất thường. Các cơn lũ vẫn có thể gây ra thiệt hại mặc dù đã có những sự thích nghi, nhưng thiệt hại hiếm khi nghiêm trọng. Ở Việt Nam hiện nay đã quen với câu "Sống chung với lũ". Điều này là thực tế của người dân một số nơi ở Đồng bằng sông Cửu Long khi lũ về họ có cơ hội được đón nhận lượng đất phù sa màu mỡ cho đất canh tác, có cơ hội cho việc tăng các nguồn lợi thủy sản như cá, tôm... Họ cũng sẵn sàng "sống chung" bằng cách thu xếp nơi ăn ở và các điều kiện sinh hoạt khác sao cho phù hợp và an toàn khi có lũ lớn về."
Ví dụ vừa nên cho thấy một khả năng ít bị tổn thương của cộng đồng người khi đã có đầy đủ sự hiểu biết, có cách kháng cự và phục hồi trong tất cả các mặt tự nhiên, kinh tế, xã hội: không thiệt hại vì có nguồn thu từ lũ, vì có sự bảo vệ trước sức mạnh của dòng lũ, vì có sự huy động của thể chế chính quyền... Không những chỉ ra thực tiễn ứng phó trước nguy cơ, ví dụ trên còn thể hiện cộng đồng ở bãi sông có tính đàn hồi. Các tác giả của cuốn Giáo trình cho biết: "Tính đàn hồi là khả năng tiếp thực thực hiện chức năng của một hệ sinh thái, hoặc hệ xã hội mặc dù có đôi lúc bị xáo trộn." Như vậy, có thể hiểu tính đàn hồi ám chỉ vào khả năng của bản thân hệ thống đang vận động.
| tính đàn hồi cao - độ ổn định thấp; tính đàn hồi thấp - độ ổn định cao |
3, Nguồn gốc và kết quả
Các chức năng của hệ sinh thái đã được phát biểu từ lâu, bao gồm: dòng năng lượng,
chuỗi thức ăn, đặc trưng phân hóa theo không gian và thời gian, vòng tuần hoàn
vật chất của các phần tử dinh dưỡng (vòng tuần hoàn sinh địa hóa), phát triển
và tiến hóa, điều khiển. Tất cả các lí thuyết về các vấn đề trên đều được ứng dụng vào các ngành liên quan đến sinh thái, dễ thấy nhất là dòng năng lượng và vòng tuần hoàn vật chất. Còn lí thuyết đã được phân tích và áp dụng trong tìm hiểu trạng thái của hệ thống sống như phần trình bày bên trên, là lí thuyết về quá trình điều khiển của hệ sinh thái: phản hồi âm tính và phản hồi dương tính.
"Mọi hệ sinh thái và hệ xã hội loài người đều có nhiều vòng phản hồi âm tính và dương tính. Cả hai loại phản hồi này đều cần thiết cho sự tồn tại. Phản hồi âm tính tạo sự ổn định, nó duy trì các phần quan trọng của hệ thống trong các giới hạn cần thiết cho việc thực hiện chức năng hoàn chỉnh. Phản hồi dương tính tạo khả năng thay đổi mạnh mẽ khi cần." Chính sự phối hợp của các phản hồi mang tính điều khiển này đã tạo ra những vùng ổn định mang cả tính đàn hồi lẫn độ ổn định. Vùng ổn định thể hiện một phạm vi mà trong đó các quá trình diễn ra ăn khớp với nhau, có thể là vùng ổn định "sống" mà cũng có thể là vùng ổn định "chết".
Kết quả của mọi tác động thường do các phản hồi trong sự tự tổ chức nội tại quyết định. Hệ thống sống chịu tác động có thể quay về trạng thái ban đầu, trong vùng ổn định cũ, hoặc bị đưa sang một vùng ổn định mới. "Các hệ sinh thái và các hệ xã hội (các hệ thống hiếm khi thay đổi) sẽ dễ dàng chuyển sang một vùng ổn định khác khi các rối loạn bên ngoài buộc chúng phải thích nghi với thay đổi do sức chứa có hạn của mình."
Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2013
lười biếng nên chỉ viết dàn ý. quan trọng vẫn là con người.
Sự cố điện như sự cố sinh thái:
- mang tính ngẫu nhiên (?)
- điện mang bản chất năng lượng;
- hệ thống điện mang bản chất mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau;
- quá trình truyền tải điện mang bản chất dòng năng lượng;
- nguyên nhân và hậu quả của và từ vấn đề mối quan hệ: môi trường - con người; vật chất - năng lượng.
- các tính toán thiệt hại phần nhiều về kinh tế - đặc tính của các ngành sinh thái liên quan đến con người(?).
Các quan niệm khi xem xét vấn đề:
- quan niệm của hệ thống lí thuyết quản lí ngành;
- quan niệm của hệ thống lí thuyết sinh thái;
- quan niệm của hệ thống lí thuyết "bền vững";
- các quan niệm khác nhau thể hiện ý thức khác nhau, phương pháp luận khác nhau và lựa chọn hành động khác nhau.
- vai trò và vị trí của con người là một mặt quan trọng để so sánh.
Hành động khả diễn sau sự cố:
- khắc phục và xem xét lại nhiều vấn đề.
- mỗi hành động mang một cấp độ: sự quản lí nguồn điện - cấp độ năng lượng; quản lý hoạt động của con người với nguồn năng lượng - cấp độ môi trường; quản lý các hoạt động của con người trong tổng thể các quá trình của năng lượng và vật chất - cấp độ sinh thái; (quản lý các hoạt động của xã hội trong các quá trình của năng lượng và vật chất - góc nhìn theo quan niệm "bền vững".)
- mỗi quan niệm phù hợp với một cách thể hiện vai trò nhất định của con người, có thể thể hiện qua biểu đồ mang tính xã hội học.
- mang tính ngẫu nhiên (?)
- điện mang bản chất năng lượng;
- hệ thống điện mang bản chất mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau;
- quá trình truyền tải điện mang bản chất dòng năng lượng;
- nguyên nhân và hậu quả của và từ vấn đề mối quan hệ: môi trường - con người; vật chất - năng lượng.
- các tính toán thiệt hại phần nhiều về kinh tế - đặc tính của các ngành sinh thái liên quan đến con người(?).
Các quan niệm khi xem xét vấn đề:
- quan niệm của hệ thống lí thuyết quản lí ngành;
- quan niệm của hệ thống lí thuyết sinh thái;
- quan niệm của hệ thống lí thuyết "bền vững";
- các quan niệm khác nhau thể hiện ý thức khác nhau, phương pháp luận khác nhau và lựa chọn hành động khác nhau.
- vai trò và vị trí của con người là một mặt quan trọng để so sánh.
Hành động khả diễn sau sự cố:
- khắc phục và xem xét lại nhiều vấn đề.
- mỗi hành động mang một cấp độ: sự quản lí nguồn điện - cấp độ năng lượng; quản lý hoạt động của con người với nguồn năng lượng - cấp độ môi trường; quản lý các hoạt động của con người trong tổng thể các quá trình của năng lượng và vật chất - cấp độ sinh thái; (quản lý các hoạt động của xã hội trong các quá trình của năng lượng và vật chất - góc nhìn theo quan niệm "bền vững".)
- mỗi quan niệm phù hợp với một cách thể hiện vai trò nhất định của con người, có thể thể hiện qua biểu đồ mang tính xã hội học.
Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013
từ mũi đến toilet - cuộc đời không dành cho bạn nào ưa sạch sẽ. nói rồi đấy, ưa sạch thì đừng đọc ^.^
Khi bạn bị khó thở, đó là do có 2 con người đang sống không cùng nhịp nơi bạn. Trong cùng một lúc, kẻ thở ra còn kẻ hít vào. Kết quả là không có chút dưỡng khí nào đi vào phổi cả.
Khi bạn bị á khẩu, đó là do có 2 con người đang sống không cùng ý tưởng nơi bạn. Trong cùng một lúc, kẻ muốn nói còn kẻ bóp họng lại. Kết quả là cùng lắm bạn chỉ kêu lên được vài tiếng ú ớ.
Khi bạn bị táo bón, đó là do có 2 con người đang sống không cùng cách thức nơi bạn. Trong cùng một lúc, kẻ tìm bô còn kẻ đá bô. Kết quả là bạn cứ ôm hận ngàn thu đi nhé. Cái này phải giải thích rõ hơn: táo bón là kết quả lâu dài của sự ganh ghét giữa 2 con người ấy.
Nói chung là, bạn không sống được theo ý của riêng cá nhân đâu. Mà nhiều khi, bạn còn chẳng biết đâu là ý muốn của bản thân bạn. Đau khổ hơn, bản thân bạn chỉ là 1 phần trong cá nhân của bạn, còn cả xã hội ngoài kia là 9 phần. 9 người 10 ý, rồi bạn sẽ bỏ lỡ nhiều phase của cuộc đời.
Thật ra là tôi chỉ đang diễn lại một cách thô thiển lý thuyết xã hội học thôi. Nhưng dù sao cũng chúc bạn sống cuộc đời lãng nhách một cách tanh bành.
Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013
Ghi chú
Hôm nay tôi đọc chương 5 của cuốn sách Sinh thái học Đô thị (O.Coutard, J. Lévy - Ngô Hữu Long dịch). Chương này có nội dung nói về nhà ở và giao thông như đối tượng tiêu thụ năng lượng, vật chất có liên quan đến môi trường. Đúng là thông qua 2 vấn đề vật chất và năng lượng, có thể liên kết nhiều thứ dường như không liên quan với nhau. Nhưng chỉ với 2 khía cạnh ấy thì các lý thuyết hay lập luận chỉ mới đứng trong địa hạt Sinh thái - Môi trường. Vì vậy, mà chúng sẽ còn bị chỉ trích. Như người ta đã vạch ra gì gì đó về "phát triển bền vững", xây dựng nên từ 3 trụ cột: tự nhiên, kinh tế và xã hội. Với lề lối tư duy sau khi "phát triển bền vững" được đề ra, thì mọi vấn đề cụ thể đều phải giải quyết trong 3 lực lượng lớn ấy.
Hôm nay tôi chú trọng đến giao thông. Các tác giả của sách đã nhắc lại "3 phẩm chất" của hệ thống di chuyển bền vững (đô thị) là: "hạn chế các tổn hại đến môi trường, với một chi phí chấp nhận được và không chệch hướng các mục tiêu công bằng xã hội." Tôi nghĩ rằng những "phẩm chất" được hi vọng như vậy, sẽ dẫn đến các giải pháp nhằm đạt được như mong muốn, cũng nằm trong 3 trụ cột lớn của "phát triển bền vững". Đó là người ta sẽ đặt ra những giải pháp quy hoạch cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, chính sách kinh tế - xã hội và các biểu hiện kép từ sự kết hợp nhiều loại giải pháp.
Hầu hết các giải pháp đó, tôi thấy rằng, đều mang tính hi vọng. Hi vọng, tức là có thể thiếu cụ thể. Vì kỹ thuật ngày càng phát triển, nhiều giải pháp được đưa ra, nhưng không biết giới hạn nào là đủ và có thể đạt đến. Trong khi sự hiểu biết về thực trạng ( chưa nói đến công nghệ) thật sự chưa toàn vẹn thì các chính sách, cũng mang tính hi vọng một cách triệt để. Và do đó rất dễ dàng rơi vào "duy ý chí". Hay làm sao để đạt được công bằng? Như các tác giả của cuốn sách đã nhắc nhở về sự tăng mật độ vùng ven đô: "Điều làm chúng tôi quan tâm ở đây, tức là việc giảm lượng khí nhà kính [từ lĩnh vực nhà ở], điều đó muốn nói rằng, nếu chính sách này không được suy nghĩ trong những cái được và mất trực tiếp và gián tiếp của nó, thì thứ thu được bằng việc xây dựng mới và sửa chữa có nguy cơ có nguy cơ lớn bị thua thiệt bởi sự sử dụng giao thông quá mức và đặc biệt của ô tô trong bối cảnh mở rộng đô thị đang diễn ra." Tôi không lạ với điều các tác giả người Pháp đã viết qua thực tế đời sống.
Như vậy, cuối cùng tôi thấy được sự hi vọng nhiều hơn trong hầu hết các giải pháp. Còn các tác giả của cuốn sách thì đề ra yêu cầu cụ thể hơn, trong hiện trạng các hiểu biết còn chưa hoàn chỉnh: "các phương pháp sản xuất thông tin đáp ứng các đòi hỏi của cách tiếp cận năng lượng của các hình thức đô thị." Trong đó gồm "các đòi hỏi liên quan đến địa điểm" và "các đòi hỏi liên quan đến các hoạt động được quan sát."
Hôm nay tôi chú trọng đến giao thông. Các tác giả của sách đã nhắc lại "3 phẩm chất" của hệ thống di chuyển bền vững (đô thị) là: "hạn chế các tổn hại đến môi trường, với một chi phí chấp nhận được và không chệch hướng các mục tiêu công bằng xã hội." Tôi nghĩ rằng những "phẩm chất" được hi vọng như vậy, sẽ dẫn đến các giải pháp nhằm đạt được như mong muốn, cũng nằm trong 3 trụ cột lớn của "phát triển bền vững". Đó là người ta sẽ đặt ra những giải pháp quy hoạch cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, chính sách kinh tế - xã hội và các biểu hiện kép từ sự kết hợp nhiều loại giải pháp.
Hầu hết các giải pháp đó, tôi thấy rằng, đều mang tính hi vọng. Hi vọng, tức là có thể thiếu cụ thể. Vì kỹ thuật ngày càng phát triển, nhiều giải pháp được đưa ra, nhưng không biết giới hạn nào là đủ và có thể đạt đến. Trong khi sự hiểu biết về thực trạng ( chưa nói đến công nghệ) thật sự chưa toàn vẹn thì các chính sách, cũng mang tính hi vọng một cách triệt để. Và do đó rất dễ dàng rơi vào "duy ý chí". Hay làm sao để đạt được công bằng? Như các tác giả của cuốn sách đã nhắc nhở về sự tăng mật độ vùng ven đô: "Điều làm chúng tôi quan tâm ở đây, tức là việc giảm lượng khí nhà kính [từ lĩnh vực nhà ở], điều đó muốn nói rằng, nếu chính sách này không được suy nghĩ trong những cái được và mất trực tiếp và gián tiếp của nó, thì thứ thu được bằng việc xây dựng mới và sửa chữa có nguy cơ có nguy cơ lớn bị thua thiệt bởi sự sử dụng giao thông quá mức và đặc biệt của ô tô trong bối cảnh mở rộng đô thị đang diễn ra." Tôi không lạ với điều các tác giả người Pháp đã viết qua thực tế đời sống.
Như vậy, cuối cùng tôi thấy được sự hi vọng nhiều hơn trong hầu hết các giải pháp. Còn các tác giả của cuốn sách thì đề ra yêu cầu cụ thể hơn, trong hiện trạng các hiểu biết còn chưa hoàn chỉnh: "các phương pháp sản xuất thông tin đáp ứng các đòi hỏi của cách tiếp cận năng lượng của các hình thức đô thị." Trong đó gồm "các đòi hỏi liên quan đến địa điểm" và "các đòi hỏi liên quan đến các hoạt động được quan sát."
Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013
Tôi có nhiều điều để mong chờ
Tôi có nên đặt niềm tin của tôi cho các nhà xã hội học, cho các lí thuyết xã hội học và phương pháp nghiên cứu của nó? Nhưng hình như việc lựa chọn đặt niềm tin vào đâu không phải là quyền hạn của tôi. Trong giới hạn suy nghĩ của mình, tôi chỉ xác định được rằng: nếu các phương pháp xã hội học đã có thể đo lường thành công thái độ, tình cảm hay các yếu tố khác có bản chất định tính, thì các nhà xã hội học sẽ giúp tôi chỉ ra được giới hạn ở mọi mặt đời sống của tôi, và của xã hội. Phạm vi đời sống của xã hội khi đó sẽ thật sự là một "không gian n chiều" với mỗi chiều của nó, xác định được giới hạn rõ ràng khi đi vào trường hợp cụ thể. Hình ảnh của một xã hội hoạt động sẽ hiện ra đầy đủ.
Tôi không phải là kẻ đi lạc thời đại qua mức, để không biến đến những chỉ số hạnh phúc mà các nhà khoa học trên toàn cầu đã tìm ra. Những chỉ số đó thật sự có thể giúp khám phá ra giới hạn của đời sống hiện đại. Tôi vẫn nghĩ quan trọng là phương pháp sử dụng những chỉ số đó. Khi có kết quả nói rằng Việt Nam là nước hạnh phúc nhất thế giới, nhiều người đã bật cười. Quan trọng là cách người ta đo đạc và mục tiêu thật sự. Tôi hi vọng đến một kết quả toàn diện. Vì tôi cho rằng chỉ khi hiểu biết toàn diện về đời sống thì mới quản lý được nó. Tôi hi vọng có được một sự quản lí toàn diện và chi tiết đời sống xã hội. Đó là hi vọng, và vấn đề của hi vọng đó là có thực hiện được nó từ việc hiểu biết sâu sắc và chắc chắn phạm vi của đời sống xã hội hay không.
Phạm vi đời sống cá nhân, hay phạm vi đời sống cộng đồng và xã hội thật sự có quan hệ với nhau theo phạm trù của triết học. Đo lường ở mức cá nhân hay xã hội thật sự đều không phải là đơn giản vì ngay quá trình đo lường cũng không giới hạn cho người thực hiện bao nhiêu đại lượng - khái niệm. Tiếp theo là sự mù dở khi triển khai khái niệm thành các chiều kích. Không có điểm bắt đầu và kết thúc. Tôi vẫn hi vọng.
Trong nhiều trường hợp đã xảy ra thường xuyên trong các ngành khác, người ta chỉ cần sử dụng một hệ thống các đại lượng nhất định để đo đạc. Tôi nghĩ rằng cũng có thể làm thế khi đo lường một khía cạnh nhất định của phạm vi đời sống. Và điều đó thì nhiều rồi, đã thành kinh điển.
Khách quan hay không khách quan, dường như mọi thứ chỉ có thể xác định khi công việc thực hiện được. Tôi sẽ cứ để ở đây mọi thứ trong hi vọng. Giả thuyết mang trong nó niềm hi vọng.
Sự thật đời sống có khi nào, khi trở nên lý thuyết hóa, trở thành thứ phi thực tế? Tôi đang hỏi chứ không nhằm mục đích gì khác. Bàn tay tôi trắng. Sự thật diễn ra rằng quản lý đời sống là một điều tất yếu xảy ra ở mọi mặt đời sống, mọi phân tầng và mọi lĩnh vực xã hội. Tôi thấy người ta đề ra sự quản lí tổng hợp và sự quản lý chuyên sâu. Cũng hợp lý. Nhưng tôi chỉ e sợ đó là cái vỏ ngoài hợp lý của những bất cập trong lòng. Vấn đề quay ngược ở lại nội hàm của phạm vi đời sống. Mọi cá nhân, nhóm cá nhân, tập đoàn người và toàn xã hội đều có phạm vi đời sống riêng - ý tôi là tôi đang cho đây là giả thuyết - thì phạm vi đời sống ấy cụ thể gồm cái gì? Nếu ở đó có đời sống vật chất và đời sống tinh thần, thì bên trong từng thứ ấy có gì nữa? Tôi nghĩ rằng phân chia hời hợt thì quản lý sẽ hời hợt. Thực tiễn đời sống bộc lộ rất rõ, nhưng tôi lại e sợ rằng thực tế lý thuyết không phản ánh đầy đủ. Khi không hiểu, không thể làm gì. Khi hiểu không rõ, sẽ làm bậy hay lần mò. Chắc đó là lúc chủ nghĩa kinh nghiệm xuất hiện. Ông Thanh Lê đã lên tiếng phê phán xã hội học Mỹ mang tính "kinh nghiệm chủ nghĩa", "tan vỡ thành từng mảnh". Chỉ e là ở đâu đó, sự quản lí xã hội, lý thuyết quản lý xã hội cũng đầy "kinh nghiệm", tự trải nghiệm hay học lại từ nơi khác, và "vỡ tan thành từng mảnh" (mảnh lĩnh vực và mạnh địa lí?) hay theo một mục đích nào khác. Mà chắc là không, tôi chỉ e sợ.
Tôi đang hi vọng rằng quản lý được thực hiện từ sự hiểu biết về đời sống. Phải, như tôi còn nhắc lại nhiều lần nữa. Tôi hi vọng vì tôi thấy điều đấy khó, khó bởi tính chất của phạm vi đời sống: (1) không có điểm bắt đầu và kết thúc cho một cuộc truy tìm, (2) có quá nhiều mức độ của đối tượng để tìm hiểu - cá nhân, nhóm cá nhân, tập đoàn người hay theo phạm vi địa lý... Mà có khi phạm vi địa lý là một chiều trong n chiều của phạm vi đời sống. Không phải chỉ là quản lý tổng hợp hay quản lý chuyên sâu, mà còn là quản lý ở mức độ nào của tập thể cộng đồng xã hội. Đương nhiên, quản lý đời sống xã hội là quản lý cả một cộng đồng to lớn. Nhưng sự tôn trọng của nhà quản lý đặt vào đâu nơi cộng đồng? Họ đặt vào từng cá nhân, từng gia đình, từng nhóm xã hội, từng nhóm lợi ích hay theo một ý đồ nào khác là cách riêng của họ. Ví dụ người ta có thể quy hoạch những cơ sở thiết yếu (trường học, bệnh viện, chợ búa...) ra ngoại thành để thay đổi sự di chuyển của từng cá nhân, thay đổi hệ thống giao thông mà không cần biết đến điều kiện của những cá nhân bị ảnh hưởng. Người ta thực hiện điều đó vì sự tôn trọng với một điều khác như kinh tế, chính trị... Họ có nhiều cách để đạt được điều họ muốn, cho dù cách của họ tỏ ra không thông minh.
Tôi đã che giấu một điều từ những dòng đầu cho đến đây. Khả độc giả nào biết có thể nhận ra, là tôi đã đem "không gian n chiều" từ sinh thái học qua đây. Tôi thấy mô hình ấy hay, và khi áp dụng cho con người, n chiều sẽ thành n + n + ... + n chiều. (Hay cũng chỉ là n chiều thôi? Vì con người đôi khi tự cho mình có đời sống xã hội phong phú hơn loài vật.) Môi trường sống của con người, xã hội người chính là môi trường n chiều đó. Quản lý đời sống, dựa trên hiểu biết về phạm vi đời sống, chính là sự quản lý môi trường sống n chiều của con người. Cá nhân quản lý đời sống riêng vì nhu cầu của cá nhân. Còn việc quản lý xã hội lại vì con người ở nhiều mức độ: con người cá nhân, con người trong tập thể, con người trong xã hội. Tôi có nhiều điều để chờ mong.
Tôi không phải là kẻ đi lạc thời đại qua mức, để không biến đến những chỉ số hạnh phúc mà các nhà khoa học trên toàn cầu đã tìm ra. Những chỉ số đó thật sự có thể giúp khám phá ra giới hạn của đời sống hiện đại. Tôi vẫn nghĩ quan trọng là phương pháp sử dụng những chỉ số đó. Khi có kết quả nói rằng Việt Nam là nước hạnh phúc nhất thế giới, nhiều người đã bật cười. Quan trọng là cách người ta đo đạc và mục tiêu thật sự. Tôi hi vọng đến một kết quả toàn diện. Vì tôi cho rằng chỉ khi hiểu biết toàn diện về đời sống thì mới quản lý được nó. Tôi hi vọng có được một sự quản lí toàn diện và chi tiết đời sống xã hội. Đó là hi vọng, và vấn đề của hi vọng đó là có thực hiện được nó từ việc hiểu biết sâu sắc và chắc chắn phạm vi của đời sống xã hội hay không.
Phạm vi đời sống cá nhân, hay phạm vi đời sống cộng đồng và xã hội thật sự có quan hệ với nhau theo phạm trù của triết học. Đo lường ở mức cá nhân hay xã hội thật sự đều không phải là đơn giản vì ngay quá trình đo lường cũng không giới hạn cho người thực hiện bao nhiêu đại lượng - khái niệm. Tiếp theo là sự mù dở khi triển khai khái niệm thành các chiều kích. Không có điểm bắt đầu và kết thúc. Tôi vẫn hi vọng.
Trong nhiều trường hợp đã xảy ra thường xuyên trong các ngành khác, người ta chỉ cần sử dụng một hệ thống các đại lượng nhất định để đo đạc. Tôi nghĩ rằng cũng có thể làm thế khi đo lường một khía cạnh nhất định của phạm vi đời sống. Và điều đó thì nhiều rồi, đã thành kinh điển.
Khách quan hay không khách quan, dường như mọi thứ chỉ có thể xác định khi công việc thực hiện được. Tôi sẽ cứ để ở đây mọi thứ trong hi vọng. Giả thuyết mang trong nó niềm hi vọng.
Sự thật đời sống có khi nào, khi trở nên lý thuyết hóa, trở thành thứ phi thực tế? Tôi đang hỏi chứ không nhằm mục đích gì khác. Bàn tay tôi trắng. Sự thật diễn ra rằng quản lý đời sống là một điều tất yếu xảy ra ở mọi mặt đời sống, mọi phân tầng và mọi lĩnh vực xã hội. Tôi thấy người ta đề ra sự quản lí tổng hợp và sự quản lý chuyên sâu. Cũng hợp lý. Nhưng tôi chỉ e sợ đó là cái vỏ ngoài hợp lý của những bất cập trong lòng. Vấn đề quay ngược ở lại nội hàm của phạm vi đời sống. Mọi cá nhân, nhóm cá nhân, tập đoàn người và toàn xã hội đều có phạm vi đời sống riêng - ý tôi là tôi đang cho đây là giả thuyết - thì phạm vi đời sống ấy cụ thể gồm cái gì? Nếu ở đó có đời sống vật chất và đời sống tinh thần, thì bên trong từng thứ ấy có gì nữa? Tôi nghĩ rằng phân chia hời hợt thì quản lý sẽ hời hợt. Thực tiễn đời sống bộc lộ rất rõ, nhưng tôi lại e sợ rằng thực tế lý thuyết không phản ánh đầy đủ. Khi không hiểu, không thể làm gì. Khi hiểu không rõ, sẽ làm bậy hay lần mò. Chắc đó là lúc chủ nghĩa kinh nghiệm xuất hiện. Ông Thanh Lê đã lên tiếng phê phán xã hội học Mỹ mang tính "kinh nghiệm chủ nghĩa", "tan vỡ thành từng mảnh". Chỉ e là ở đâu đó, sự quản lí xã hội, lý thuyết quản lý xã hội cũng đầy "kinh nghiệm", tự trải nghiệm hay học lại từ nơi khác, và "vỡ tan thành từng mảnh" (mảnh lĩnh vực và mạnh địa lí?) hay theo một mục đích nào khác. Mà chắc là không, tôi chỉ e sợ.
Tôi đang hi vọng rằng quản lý được thực hiện từ sự hiểu biết về đời sống. Phải, như tôi còn nhắc lại nhiều lần nữa. Tôi hi vọng vì tôi thấy điều đấy khó, khó bởi tính chất của phạm vi đời sống: (1) không có điểm bắt đầu và kết thúc cho một cuộc truy tìm, (2) có quá nhiều mức độ của đối tượng để tìm hiểu - cá nhân, nhóm cá nhân, tập đoàn người hay theo phạm vi địa lý... Mà có khi phạm vi địa lý là một chiều trong n chiều của phạm vi đời sống. Không phải chỉ là quản lý tổng hợp hay quản lý chuyên sâu, mà còn là quản lý ở mức độ nào của tập thể cộng đồng xã hội. Đương nhiên, quản lý đời sống xã hội là quản lý cả một cộng đồng to lớn. Nhưng sự tôn trọng của nhà quản lý đặt vào đâu nơi cộng đồng? Họ đặt vào từng cá nhân, từng gia đình, từng nhóm xã hội, từng nhóm lợi ích hay theo một ý đồ nào khác là cách riêng của họ. Ví dụ người ta có thể quy hoạch những cơ sở thiết yếu (trường học, bệnh viện, chợ búa...) ra ngoại thành để thay đổi sự di chuyển của từng cá nhân, thay đổi hệ thống giao thông mà không cần biết đến điều kiện của những cá nhân bị ảnh hưởng. Người ta thực hiện điều đó vì sự tôn trọng với một điều khác như kinh tế, chính trị... Họ có nhiều cách để đạt được điều họ muốn, cho dù cách của họ tỏ ra không thông minh.
Tôi đã che giấu một điều từ những dòng đầu cho đến đây. Khả độc giả nào biết có thể nhận ra, là tôi đã đem "không gian n chiều" từ sinh thái học qua đây. Tôi thấy mô hình ấy hay, và khi áp dụng cho con người, n chiều sẽ thành n + n + ... + n chiều. (Hay cũng chỉ là n chiều thôi? Vì con người đôi khi tự cho mình có đời sống xã hội phong phú hơn loài vật.) Môi trường sống của con người, xã hội người chính là môi trường n chiều đó. Quản lý đời sống, dựa trên hiểu biết về phạm vi đời sống, chính là sự quản lý môi trường sống n chiều của con người. Cá nhân quản lý đời sống riêng vì nhu cầu của cá nhân. Còn việc quản lý xã hội lại vì con người ở nhiều mức độ: con người cá nhân, con người trong tập thể, con người trong xã hội. Tôi có nhiều điều để chờ mong.
Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013
không thể viết nhiều - khi muốn tạo ra tính tiêu cực trong vấn đề thì chỉ cần không thừa nhận
Tôi luôn cố giữ gìn trạng thái suy tư của bản thân. Não bộ phải hoạt động. Vì điều đó khiến tôi có cảm giác mình đang sống. Mỗi ngày tôi suy nghĩ nhiều hơn, chính như đó là ước mơ của riêng tôi. Hay là thứ mang lại cho tôi cảm giác nhân bản trong đời sống.
Tôi không muốn chính mình tự bó hẹp mình. Phạm vi đời sống của tôi phải ngày càng được mở rộng. Ít nhất là về mặt lý trí, về khả năng cảm nhận, về sự hiểu biết. Dù cho cũng phải thừa nhận rằng nhiều mặt khác trong đời sống của tôi bị giới hạn. Cảm giác giống như tôi ngồi trong một chiếc hộp có chiều mặt. Người khác nhìn thấy tôi trong không gian với diện mạo như tôi mỗi ngày. Còn tôi nhìn tôi như thế nào nếu không phải nhìn qua các giới hạn của đời sống. Tôi nhìn chính tôi qua khả năng kinh tế: số tiền phải tiêu, qua sức khỏe: thuốc men hằng ngày phải uống, qua khả năng: những gì có thể làm hằng ngày... Hay tôi nhìn mình qua chính đôi mắt của xã hội? Xã hội nhìn tôi qua những gì tôi làm được. Cái nhìn của xã hội khi nào là cái nhìn khách quan? Vì xã hội đâu thấy được nội tâm của tôi. Tôi phải tự nhìn mình như thế nào? Phạm vi đời sống của tôi là một không gian n chiều, những nhiều bị giới hạn: vừa tự do vừa tù túng.
Xã hội học có nói về khác biệt xã hội. "Khác biệt xã hội là gì? Là sự khác biệt giữa các cá nhân trên cơ sở những đặc điểm và đặc trưng xã hội như kinh tế, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, chủng tộc, tuổi, giới tính, v...v..." Vậy khác biệt xã hội có phải là cơ sở hình thành nơi đời sống của tôi những giới hạn? Hay sự thật diễn ra theo chiều ngược lại? Những giới hạn trong các mặt đời sống của tôi khác với những giới hạn trong đời sống của một ai đó bất kì. Có phải từ đó mà người ta nhìn ra các khác biệt xã hội? Nhưng lỡ những giới hạn đó giống nhau giữa những người khác nhau? Nếu tôi giàu thì cũng có người khác giàu. Nghèo thì không phải chỉ có mình tôi. Kẻ đòi hỏi thưởng thức nghệ thuật không phải có mình tôi và cũng không phải chỉ có mình tôi biết sống trong tình cảm. Từ khi nào những tập đoàn người có chung những đặc điểm nhất định đã hình thành? Tôi không bao giờ muốn đặt nặng vấn đề vật chất hơn vấn đề lý trí trong đời sống, nhất là khi nhìn nhận đời sống xã hội.
Giới hạn hay không giới hạn? Khách quan hay chủ quan? Đến cùng thì tôi không biết. Nếu có ai đó đủ khả năng bóc trần mọi mặt trong đời sống này, tôi mới hiện rõ trước xã hội và trong mắt tôi là tôi đúng hay sai. Có phải khát khao hạnh phúc, khát khao không bị trói buộc trong những nhu cầu thiết yếu nhất và mở rộng nhu cầu là đặc trưng mang chất nhân bản của con người?
Và tôi phải nói gì về "phạm vi đời sống" của cả một cộng đồng hay một xã hội?
Xã hội học có nói về khác biệt xã hội. "Khác biệt xã hội là gì? Là sự khác biệt giữa các cá nhân trên cơ sở những đặc điểm và đặc trưng xã hội như kinh tế, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, chủng tộc, tuổi, giới tính, v...v..." Vậy khác biệt xã hội có phải là cơ sở hình thành nơi đời sống của tôi những giới hạn? Hay sự thật diễn ra theo chiều ngược lại? Những giới hạn trong các mặt đời sống của tôi khác với những giới hạn trong đời sống của một ai đó bất kì. Có phải từ đó mà người ta nhìn ra các khác biệt xã hội? Nhưng lỡ những giới hạn đó giống nhau giữa những người khác nhau? Nếu tôi giàu thì cũng có người khác giàu. Nghèo thì không phải chỉ có mình tôi. Kẻ đòi hỏi thưởng thức nghệ thuật không phải có mình tôi và cũng không phải chỉ có mình tôi biết sống trong tình cảm. Từ khi nào những tập đoàn người có chung những đặc điểm nhất định đã hình thành? Tôi không bao giờ muốn đặt nặng vấn đề vật chất hơn vấn đề lý trí trong đời sống, nhất là khi nhìn nhận đời sống xã hội.
Giới hạn hay không giới hạn? Khách quan hay chủ quan? Đến cùng thì tôi không biết. Nếu có ai đó đủ khả năng bóc trần mọi mặt trong đời sống này, tôi mới hiện rõ trước xã hội và trong mắt tôi là tôi đúng hay sai. Có phải khát khao hạnh phúc, khát khao không bị trói buộc trong những nhu cầu thiết yếu nhất và mở rộng nhu cầu là đặc trưng mang chất nhân bản của con người?
Và tôi phải nói gì về "phạm vi đời sống" của cả một cộng đồng hay một xã hội?
Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2013
Đầu vào và đầu ra của hệ sinh thái đô thị
Chúng tôi xin được xem
xét một cách nhanh chóng về hai trong nhiều khía cạnh của hệ sinh thái mà chúng
tôi cho là khá quan trọng. Đó là nguyên liệu và năng lượng. Hệ sinh thái đô thị
được xem là một trong hai hệ sinh thái nhân tạo quan trọng và lớn nhất trên
Trái đất ( hệ sinh thái đô thị và hệ sinh thái nông nghiệp). Bảng so sánh sau
đã nêu ra điểm cốt yếu nhất về đặc tính của hệ sinh thái đô thị, bên cạnh hệ
sinh thái nông nghiệp.
Hệ sinh thái
|
Năng lượng đầu vào
|
Vật chất tái sinh
|
Tự nhiên
|
Năng lượng ánh sáng mặt trời.
|
|
Nông nghiệp
|
Năng lượng mặt trời và năng lượng
bổ sung từ nguồn khác.
|
Một phần sản phầm được thu hoạch
(đưa ra khỏi hệ sinh thái nông nghiệp).
|
Đô thị
|
Năng lượng được cung cấp như điện
than, dầu mỏ, thực phẩm.
|
Vật chất tái sinh ít, phần lớn sau
sử dụng được chôn lấp hoặc chuyển sang hệ sinh thái khác.
|
Nguyên liệu vật chất và
năng lượng của hệ sinh thái đô thị được tổ chức vào thành phần tự nhiên và
thành phần nhân tạo. Thành phần nhân tạo trong hệ sinh thái đô thị chiếm ưu
thế, do con người tạo nên, làm gia tăng entropy các tiểu phần. Trong khi đó
thành phần tự nhiên bao gồm các sinh vật tự phát tán, sinh trưởng và phát
triển, thể hiện tính chất tự tổ chức và tự duy trì của hệ sinh thái tự nhiên
làm giảm entropy trong hệ thống.
Cũng có thể phân chia các
thành phần trong hệ sinh thái đô thị theo cách sau: (1) thành phần hữu sinh:
con người và các loài sinh vật trong đô thị; (2) thành phần vô sinh: hệ thống
các yếu tố vật lí, chế độ khí hậu; (3) thành phần công nghệ: nhà máy, cơ quan,
xí nghiệp, trường học… Nhưng chúng tôi không cho rằng đây là sự phân chia đầy
hợp lý vì hệ thống thành phần vô sinh cũng có thể bao gồm các công trình xây
dựng gây biến đổi địa hình và khí hậu…
Những so sánh phía trên
về năng lượng và nguyên liệu giữa các hệ sinh thái nhân tạo đã làm lộ diện ý
niệm về sự bổ sung. Điều đó có nghĩa là đầu vào và đầu ra của hệ sinh thái nhân
tạo mang một ý nghĩa lớn hơn hệ sinh thái tự nhiên. Hai mô hình sau rất có ích
trong việc nhận diện hệ sinh thái nông nghiệp và hệ sinh thái đô thị.
Số lượng nguyên liệu vật
chất và năng lượng trong đầu vào đô thị lớn hơn nhiều so với đầu vào nông
nghiệp. Điều đó có nghĩa là hệ sinh thái đô thị nằm ở trạng thái khác biệt so
với tự nhiên nhiều hơn hệ sinh thái nông nghiệp. Khối lượng trong đầu ra của
hai hệ sinh thái nhân tạo này cũng không giống nhau thể hiện hiệu suất của từng
hệ sinh thái. Hệ sinh thái đô thị như vậy tỏ ra là một hệ sinh thái tiêu tốn
nhiều thành phần nhân tạo hơn trong khi đó hiệu suất của nó lại thấp hơn hệ
sinh thái nông nghiệp. Sự khác biệt giữa đầu vào, đầu ra giữa hai hệ sinh thái
trên còn do tính quay vòng vật chất, thông tin trong mỗi hệ sinh thái không
giống nhau. Lí giải bằng sơ đồ, các nhà khoa học đã phân tích được đầu vào và
đầu ra của hệ sinh thái đô thị như hình sau.
Ethan
H. Decker, Scott Elliott, Felisa A. Smith, Donald R. Blake, và F. Sherwood
Rowland đã có nghiên cứu kĩ lưỡng. Một cách phân loại mang tính thiết thực hơn
cho việc giáo dục đối với các dạng nguyên liệu vật chất đầu vào và đầu ra trong
hệ sinh thái đô thị đã được thiết lập. Sự phân loại này không tự nhiên như khi
xem xét trên chu trình vật chất phổ biến, nhưng nó gây chú ý đối với cách con
người tác động đến hệ sinh thái đô thị.
Theo
đó thì đầu vào gồm 3 loại:
a. Đầu vào của các nguyên liệu lưu trữ:
các loại vật chất trong quá trình xây dựng, kiến tạo đô thị như gạch, đá, gỗ,
thủy tinh, kim loại, xi măng, chất dẻo… Những loại này trở thành một phần cấu
trúc. Chi phí xã hội và chi phí môi trường của một cao ốc nhân tạo có thể so sánh
với sự duy trì và xoay vòng (turnover) bình thường
trong hệ sinh thái tự nhiên.
Một thành phố lớn
điển hình tiêu thụ từ 100-1000 petajoules năng lượng
hằng năm để điều khiển sự vận tải, điện lực, thiết bị điều khiển khí hậu của
nó. Từ quan điểm về sự thay đổi khí hậu toàn cầu, năng lượng đó rốt cuộc sẽ chuyển
sang một sự bức xạ và tích lũy carbonic khí quyển và sự xả thải nhiều dạng khí
gas, bụi hạt và chất ô nhiễm nước. Một vài vật liệu xây dựng, cũng như phần còn lại của thức ăn và nguyên liệu
dệt, cuối cùng sẽ kết thúc ở dạng lưu trữ ở các hố chôn rác hoặc bị thiêu.
Vật rắn và lỏng như đồ thải bỏ để thiêu bao gồm, đó là gỗ (giấy), thủy tinh,
kim loại, đồ ăn thừa và nhựa. Ở Mexico City, 43% vật thải rắn là thức ăn thừa,
phần lớn còn lại là sản
phẩm giấy, thủy tinh và tã lót. Các điểm đến của chất thải cũng trực
tiếp ảnh hưởng đến kết quả của tốc độ thất thoát cho những chất gây ô nhiễm đa
dạng. Những chất hóa học hữu cơ không bền lọc qua đất hoặc bề mặt nước hoặc vào
khí quyển. Một cách toàn cầu, các hố rác là nguồn chính của khí
metan “greenhouse gas”. Khí etan và những hydrocarbon khác cũng dc tạo
ra và khí quyển oxi hóa của chúng biến đổi phổ quang hóa của hành tinh.
b. Đầu vào chuyển đổi: là những vật chất
quan trọng nhất xâm nhập vào thành phố. Sự chuyển đổi của thức ăn qua các
thành phố tác động tới chu trình của nitrogen. Nhiên liệu được sử dụng tác động
tới sự chuyển dạng chu trình carbon. Hai nguyên tố carbon và nitrogen cung cấp
sinh khối hay/và năng lượng cần thiết cho con người hay công cụ của họ để thực
hiện các chức năng, và nó phải được cung cấp một cách hằng định. Sự huy động
của con người về lượng carbon và nitrogen là rất lớn và về bản chất gắn với sản
phẩm, tổng lượng thức ăn và nhiên liệu, phải được tính trong hệ
thống chuẩn để hiểu một cách đầy đủ về chu trình carbon và nitrogen một cách địa phương, vùng miền
và toàn cầu.
(1) Thức ăn: Quá trình đánh giá về sự nhập vào của thức ăn
vào các thành phố lớn thường khó khăn bởi sự sản xuất và vận chuyển rất tràn
lan. Không có một báo cáo rõ ràng nào của các thành phố lớn về sự sản xuất và
tiêu thụ. Số liệu
về sự sản xuất thức ăn được tổng
kết tại mức quốc gia (country level) có thể phản ánh
rằng những quốc gia giàu hơn sản xuất nhiều thức ăn trên đầu người (food per
capita) hơn. Một vài bằng chứng khác cho thấy, các cư dân thành thị ăn nhiều và dinh
dưỡng hơn. Trong
trường hợp đó sự tiêu thụ thức ăn thành phố có thể cao hơn trung bình quốc gia, và kết quả sau cùng của
thực phẩm là chấm dứt ở các hố rác lớn hơn.
(2) Năng lượng: Không một tổ
chức quốc tế chính thức nào hiện nay thống kê được năng lượng tiêu thụ ở cấp
thành phố (city level). Tuy nhiên, các loại nhiên liệu chủ yếu ở các thành phố
lớn nhất đều được biết.
Sự tập
trung nhiều dầu xảy ra ở các vùng thành thị như Jakarta
và Manila .
Trong khi đó khí tự nhiên lại ở các thành phố Bangkok ,
Bombay , London ,
Mexxico city và Moscow .
Than đá là một nguồn nguyên liệu chính ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Calcutta và Seoul . Thủy
điện là một nguồn lớn nhất ở Sao Paolo và Los Angeles. Tại các nước đang phát
triển, gỗ và than dễ tiếp cận hơn với các nhóm thu nhập thấp hơn hơn so với khí
thiên nhiên và điện. Việc sử dụng nhiên liệu sinh học càng phổ biến, làm cho dự
toán chính xác càng khó khăn hơn. Tại Jakarta, nhiên liệu sinh học chiếm trên
25% đầu vào nhiên liệu. Chúng ta có thể giả sử rằng sự phát
triển ở các quốc gia khác sẽ tương tự hướng các siêu đô thị (megacity) lên
những “bậc thang năng lượng” (energy ladder) đến các năng lượng sạch hơn, nhiều
nhiên liệu vận chuyển (transport fuel) hơn và nhiều sản xuất điện năng hơn.
Nhiên
liệu sử dụng được gắn liền với kích thước của các đoàn xe ô tô của
thành phố. Con số
về ô tô trong các siêu đô thị rất đa dạng, từ 4/1000 dân cư ở Lagos (khoảng
40000 vehicles) đến 645/1000 ở Los Angeles hay khoảng 8 triệu chiếc ô tô.
Phương tiện giao thông bản thân chúng phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng của hệ thống
giao thông. Tuy nhiên, xe ô tô có chiều hướng thâm nhập vào nền văn hóa mới bởi
vì các con đường có thể
xây dựng ăn khớp theo chúng. Ví dụ, hơn 30 năm qua, xe máy ở Thượng Hải tăng
gấp 13 lần và xe không động cơ (nonmotor) tăng 9 lần, trong khi đường xá chỉ
tăng khoảng 50%.
(3) Nước: Mặc dù nước cũng đi vào thành
phố một cách thụ động, sự nhập vào chủ động của con người từ tầng nước ngầm và
các đường dẫn nước đi xa thường cung cấp số lượng lớn phục vụ nhu cầu tiêu thụ.
Không giống như nhiên liệu và thực phẩm, nước có thể được làm sạch và tái sử
dụng nhiều lần trước khi nó được xuất khỏi hệ thống đô thị, mặc dù điều này chỉ
xảy ra ở các thành phố giàu có và có thể đủ khả năng thiết bị. Các thành phần
gây hại trong nước không phải thuộc về bản thân nó mà là chất thải từ thức ăn,
nhiên liệu, và tiêu thụ vật chất. Đối với rất nhiều siêu đô thị,
các dòng nước (water flux) được đánh giá rất khó khăn bởi vì ko phải tất cả các
cư dân đều nhận được nước từ trong hệ
thống thành phố hoặc các dịch vụ nước thải ở nhà họ. Sự tiếp cận với nước máy thường giảm đối với các vùng ngoại
vi thành phố (siêu độ thị?). Ở Mexico city,
một ví dụ, các dịch vụ ống nước suy giảm từ 45% ở trung tâm đến còn 27% ở ngoại thành và giảm còn gần
đến 0 ở các vùng định cư bất hợp pháp. Sự vắng mặt của dịch vụ nước toàn diện
trong quá trình phát triển nhanh chóng các thành phố đưa đến kết quả là sự
thiếu nước để đáp ứng nhu cầu cơ bản của chính phủ và dân cư, quan trọng nhất sau
đó là ở vấn đề vệ sinh môi trường. Rò rỉ trong các hệ thống cung cấp nước từ
mạng lưới cung ứng vào các kênh bề mặt và nước ngầm có ý nghĩa quan trọng trong
thành phố lớn. Thất thoát xảy ra với tỷ lệ 33% ở Bombay, 37% ở Seoul, 49% ở
Bangkok, 50% ở Cairo, và 51% trong Manila. Nước là một dòng
vật chất riêng rẽ to lớn nhất ở hệ sinh thái thành thị. Các thành phố tiêu thụ
trung bình khoảng 1000 kt nước/ngày.
a. Đầu vào thụ động có nhiều đặc tính
của đầu vào tự nhiên, trong khi thành phần chính của loại đầu vào này gồm:
(1) Không khí: Đầu vào thụ động của
các chất trong bầu không khí chủ yếu có ni – tơ và ô – xi. Sự gia tăng của khí
carbonic đe dọa hiện tượng hiệu ứng nhà kính trên toàn cầu. Nồng độ trung
bình CO2 được bổ sung vào khí quyển do các hoạt động của con người
trong thế kỷ qua đo được ở mức 100 ppm (tính bằng mole). Các loại phân tử khác
có mặt ở mức ppm hoặc cao hơn, bao gồm hơi nước và khí methane. Cả hai đều có
tác động đáng kể đến khí hậu và chu kỳ sinh hóa địa thông qua các nguồn chứa
vật chất của môi trường đô thị. Chu trình thuỷ
văn toàn cầu xác định khi nào và ở đâu nước hiện có sẵn để sử dụng con người.
Thành phần mathane trong không khí được tăng cường tại các thành phố do rò rỉ
khí đốt tự nhiên và sản sinh trong môi trường kỵ khí, chủ yếu là bãi rác và
cống. Khí methane được coi là một loại khí gây hiệu ứng nhà kính lớn.
Thông thường, ở độ cao trên 25km thì NOx làm
giảm nồng độ O3, còn ở độ cao dưới 25km, NOx có tác
dụng bảo vệ O3 khỏi bị phá hủy. Khí NOx hoạt động như chất xúc
tác trong quá trình phân hủy hydrocarbon, tạo ozone. Trong tầng đối lưu, NOx
là một chất oxi hóa và là khí nhà kính.
Lưu lượng khối của tổng những chất khí và
các hạt (chủ yếu bởi ni – tơ và ô xi) khác nhau từ thành phố này so với thành
phố khác vì địa hình và đặc điểm khí tượng học. Tọa lạc tại 20 độ vĩ bắc, thung
lũng của Mexico
đưa ra kinh nghiệm về các hệ thống gió tây vào mùa đông và trở lại của gió mậu
dịch trong mùa hè. Dòng thổi chính bị chặn lại bởi một vòng hình chữ U của các
rặng núi mở ở phía bắc và tăng từ tầng lưu vực 2.200 m đến khoảng 3000 độ cao.
Đối với các khu vực đô thị trong địa hình bằng phẳng, sự lưu thông của khí dễ
tính toán hơn. Siêu đô thị ven biển chịu ảnh hưởng của gió biển. Dãy núi ngang
có thể ngăn chặn lưu thông và góp phần vào vấn đề ô nhiễm nghiêm trọng của địa
phương.
(2) Nước: Đầu vào thụ
động của nước vào thành phố bao gồm lượng mưa và dòng chảy trên bề mặt đô thị.
Cơ sở hạ tầng đô thị có ảnh hưởng sâu sắc vào chu trình nước. Môi trường xây
dựng có thể gia tăng sự bốc hơi và lượng mưa đô thị. Mặt đường và công trình
sau xây dựng để lại bề mặt đô thị hầu như không thấm. Điều này làm giảm đáng kể
sự xâm nhập của nước vào đất, độ ẩm của đất, dòng chảy ngầm... Ví dụ ở Tokyo , 82% bề mặt được
bao phủ bởi các tòa nhà, bê tông, hoặc nhựa đường. Giảm nước ngầm cũng góp phần
làm sụt lún ở một số siêu đô thị. Đó là điều đang xảy ra ở trung tâm của thành
phố Mexico City :
giảm 9 mét do lún, kể từ 1910. Các bộ phận của Bangkok bị chìm 1,6 m giữa năm
1960 và 1988, trung bình 5,7 cm mỗi năm.
Đầu vào thụ động của nước được coi như tài
sản lẫn phiền hà. Ở các thành phố đang phát triển, nước mưa từ mái nhà là nguồn
nước chính phổ biến ở các vùng ngoại vi đô thị, nơi mà dịch vụ cấp nước hay ngay
cả xe tải chở nước có thể không đáng tin cậy. Ở các thành phố phát triển nhất
với nguồn cung cấp nước tập trung, nước mưa đô thị được hình thành trong tâm ý
nhà quản lí như một mối phiền toái, và nước mưa bị đẩy thông qua hệ thống cống
của thành phố. Trong thành phố ôn đới và nhiệt đới, có thể thu được một lượng
đáng kể nước. Thành phố New York
nhận được khoảng 10.000 kt nước mưa mỗi ngày, vượt dự kiến sử dụng 7.610 kt
mỗi ngày 36%. Thu hứng và xử lý nước mưa trên quy mô lớn đòi hỏi phải có những
thay đổi đáng kể và tốn kém trong cơ sở hạ tầng, chính phủ và / hoặc khu dân
cư, vẫn chưa rõ chính xác khi nào những thay đổi này trở nên hiệu quả về mặt chi
phí.
(3) Nhiệt: Các thành phố
bị ảnh hưởng bởi bức xạ mặt trời, từ các nguồn do con người gây ra như thiết kế
kết cấu. Kết hợp của sự gia tăng nhiệt hấp thụ bề mặt (chẳng hạn như nhựa
đường), tăng diện tích bề mặt (do xây dựng công trình), và kết quả nhiệt do sản
xuất tăng lên (do ngành công nghiệp, giao thông vận tải và sưởi ấm, nước và
không gian) tạo ra một hòn đảo nhiệt đô thị: có nghĩa là tăng nhiệt độ bề mặt
và không khí một vài độ C. Tại Mexico City, các tòa nhà và các bề mặt lưu trữ
rất nhiều nhiệt trong ngày, làm thành phố duy trì một dòng nhiệt đi lên trong
suốt hầu hết các đêm. Tăng nhiệt độ khí quyển có thể thay đổi tỷ
lệ phản ứng hóa học khí quyển, thường chúng tăng lên (theo mối quan hệ của
nhiệt độ và tốc độ phản ứng). Nhiệt độ tăng lên cũng ảnh hưởng đến lượng mưa,
thường dẫn đến tăng lượng mưa ở thành phố so với môi trường xung quanh. Tại
Thượng Hải, tăng nhiệt độ trong lõi đô thị lên đến 5 độ C góp phần làm tăng
lượng mưa ở mức 100 mm mỗi năm.
Đầu ra:
a.
Đầu ra trong môi trường khí: Các khí được xuất ra khỏi đô thị thường là
các khí gây ô nhiễm, độc hại. Ô nhiễm không khí bắt đầu từ trung tâm ô nhiễm
của những quốc gia đầu tiên trên thế giới vào thập kỉ 50 thế kỉ 20. Ví dụ về
sự xả thải qua dạng khí ở thung lũng Mexico thể hiện qua bảng sau:
Vật chất trong đầu ra dạng khí của hệ sinh
thái đô thị bao gồm hợp chất chứa carbon (các chất khử, chất oxi hóa và hợp
chất hữu cơ: CH4, CO, các hydrocarbon khác methane); các hợp chất
chứa ni – tơ (NH3 và NOx); khí SO2; bồ hóng và
bụi. Các chất khí này xuất phát từ quá trình hoạt động kị khí của các vi sinh
vật (methane), sự đốt cháy không hoàn toàn nhiên liệu dạng lỏng, nhiên liệu ô
tô, sự rỏ rỉ và chuyển dạng của nhiên liệu carbon (các alkane, NMHC, bụi và bồ
hóng), các quá trình đốt cháy trên toàn cầu (NOx), từ phân của các
sinh vật tự nhiên và trong nhà (NH3).
Các khí sau khi thải vào bầu không khí
thường xảy ra các phản ứng hóa học tự nhiên, có thể gây nguy hiểm. Nhưng tốc độ
các phản ứng thấp hơn nhiều so với tốc tộ thải nên thường gây tích tụ. Khí gây ô nhiễm không chỉ ảnh hưởng
đến sức khỏe cư dân và hệ sinh thái ở đô thị mà còn tác động đến các hệ sinh
thái chung quanh nó và bầu không khí toàn cầu. Các hạt có chứa axit lưu huỳnh gây ra
nhiều ca tử vong ở London
trước việc sử dụng than đã được kiểm soát. Ni – tơ từ các siêu đô thị có thể
hoạt động như phân bón cho khu vực tự nhiên theo hướng gió, cả mặt đất và biển
cả. Sắt từ Trung Quốc sẽ tăng mức độ vi chất dinh dưỡng một phần đối với một số
từ xa vùng biển Bắc Thái Bình Dương. Chất oxy hóa được biết là làm giảm năng
suất cây trồng trong các lĩnh vực nông nghiệp đông dân cư khu vực Đông Á…
b.
Đầu ra trong môi trường nước và biển:
Rất khó để tính được cụ thể hệ thống thoát nước, quá trình tạo ra nước thải và
điểm đến của nó trong các thành phố đang phát triển. Ở một số nơi, hệ thống
thoát nước bị hạn chế. Lượng nước thải đang ngày một gia tăng dù khả năng xử lí
chúng tăng lên cùng với sự phát triển.
Hệ sinh thái đô thị liên hệ với các hệ sinh thái khác bằng
dòng vật chất và năng lượng chảy qua nó. Sử dụng nước, thực phẩm và đốt cháy
năng lượng là những hoạt động ở cấp độ toàn cầu. Các tác động vào các quá trình sinh thái có thể
xảy ra ở một vị trí xa hơn vì có những dòng feedback phức tạp tồn tại giữa đô
thị và môi trường.
Thứ Ba, 16 tháng 4, 2013
Gradient đô thị - nông thôn
Giáo sư Richard T. T.
Forman đã sử dụng sơ đồ về vùng đô thị để vạch ra phạm vi của vùng đô thị với
nhiều khái niệm liên quan theo phương pháp cảnh quan trong khi cũng đặt sự quan
tâm lên kích thước quần thể dân cư một cách đầy cuốn hút. Mời quý bạn đọc xem
thêm trong sách “Urban Regions, Ecology and Planning beyond the City”.
Trên đây là một triển
khai cho quy phạm về giới hạn không gian của hệ sinh thái đô thị. Tất yếu cũng
có nhiều cách xem xét khác, kĩ lưỡng hay đơn sơ hơn. Trong phạm vi tìm hiểu hệ
thống lí thuyết mới mẻ của Sinh thái học đô thị, chúng tôi cảm thấy biểu đạt
của giáo sư Forman là hoàn toàn phù hợp. Đó không chỉ là giới hạn không gian mà
còn là sự biến đổi trong hình thái của đô thị theo chiều ngang. Vấn đề sẽ được
trích lược sâu hơn về sau.
Chương trình Gradient
Sinh thái Đô thị - Nông thôn (Urban-Rural Gradient Ecology) do nhóm các nhà
nghiên cứu Mark McDonnell, Steward Pickett, Richard Pouyat và Margaret Carreiro
tiến hành ở vùng siêu đô thị New York, đã đưa ra khung lý thuyết nêu lên sự
thay đổi theo gradient từ vùng đô thị lõi đến nông thôn và hệ sinh thái tự
nhiên. Nó gồm 2 thành phần thể hiện qua các thước đo về: (1) điều kiện lí –
hóa; (2) tập hợp sinh vật; (3) quá trình của hệ sinh thái; (4) yếu tố nhân văn.
Trong đó 3 thước đo đầu tiên thuộc thành phần như trong khái niệm về gradient
sinh thái học và thành phần sau bao gồm con người như thành phần của hệ sinh
thái. Theo đó là kết luận về quá trình đô thị hóa như một quá trình tạo ra một
gradient môi trường phức tạp.
Một sơ đồ phân chia theo
thứ tự các vùng lãnh thổ theo gradient đô thị - nông thôn được trình bày ở hình
dưới. Sơ đồ gồm 2 phần là hình chiếu theo chiều đứng và ngang theo lát cắt từ
trung tâm đô thị đến vùng tự nhiên.
Lưu ý của
các tác giả đưa ra cho khung lý thuyết này là hầu như đầy không phải là trật tự
tất yếu của mọi trường hợp. Mỗi khu đô thị khác nhau có sự thể hiện gradient đô
thị - nông thôn khác nhau. Nó không tuyến tính và không đều trong các đô thị
trên khắp thế giới. Điều đó phụ thuộc và cách mà mỗi quốc gia tiến hành quá
trình đô thị hóa.
Các
thành phần của gradient đô thị - nông thôn đã được giới thiệu đi sâu hơn phân
tích sẽ gồm nhiều yếu tố. Sơ đầu dưới cho thấy những yếu tố đó. Tất nhiên,
không thể xem xét chúng theo quan điểm cấu trúc vì chúng là các thành tố ảnh
hưởng qua lại. Thành phần con người với 3 thành tố chính ảnh hưởng nhiều đến các
quá trình theo gradient trong hệ sinh thái đô thị.
một phong cách hay cách nhìn thế giới?
Tôi đã luôn tự hỏi, liệu bản thân tôi có cần đến blog này lắm không? Có cần lập ngôn? Không một bằng cấp, không một học vị nào dành cho tôi cả. Thậm chí thứ tôi đang học với tất cả niềm yêu thích, bản thân tôi vượt qua mọi chông gai, nếu thành tài, thì chưa chắc gì đã được xem trọng. Vậy nên nói năng nhiều có cần thiết? Nhất là khi sự sáng tạo của bản thân quá kém, không thể gửi gắm rõ ràng qua bất kì công việc nghiêm túc nào. Người đời sẽ nhìn vào và phê phán là tôi kém cỏi về năng lực và lòng vòng về luận điệu...
Tôi bị ám ảnh, một cách kinh sợ và ghê tởm, đối với một hình ảnh: giáo sư già giật micro của một người phát biểu trẻ tuổi để... tiết kiệm thời gian cho thứ gọi là Hội đồng khoa học. Với "phong cách khoa học miền Nam" đã hằn sâu vào đầu óc, vào chuẩn mực đời sống của tôi, thì từ đó đến giờ, tôi vẫn không bao giờ chấp nhận được điều ấy. Tôi cho rằng, ông ta chỉ dám giật micro khi thật sự ông ta cho rằng bản thân đã hiểu tường tận mọi tầng lớp của sự nghiên cứu, quá trình nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu bằng một thái độ trịch thượng và truyền giảng tôn giáo!
Chính hình ảnh đầy hãi hùng đó, với những nguồn gốc tiểu sử khác, đã dẫn tôi tới một cảm quan bi lụy về tương lai của bản thân tôi nếu dấn thân vào khoa học và về tương lai của khoa học nước nhà. Và cũng từ đó, tôi không ngại ngần gì vạch ra thứ chuẩn mực mà tôi gọi là "phong cách khoa học miền Nam", nhờ soi chiếu với những người thầy cũ đầy đức độ của tôi ngày trước, dạy khoa học "vỡ lòng" cho tôi, với một thái độ tôn trọng suy nghĩ của học sinh, dù sai hay đúng, phản biện bình đẳng và thẳng thắn với học sinh.
"Phong cách khoa học miền Nam" dường như rõ ràng không liên quan gì tới khoa học. Trớ trêu quá chăng?
Tôi không phân biệt Bắc và Nam để miệt thị điều gì và ai cả. Tôi phân biệt vì một kiểu "phong cách" đối xử với khoa học là một đầu mối vũ trụ quan trong khoa học và là thái độ của người làm khoa học quyết định thành tựu trong quá trình đi tìm chân lý.
Chỉ có một thái độ đúng đắn, thì Darwin mới viết ra thuyết tiến hóa. Chỉ có ở "phong cách" Mendel thì học thuyết di truyền mới ra đời.
Thêm nữa Jean Paul Sartre và Trần Đức Thảo tranh luận với nhau cũng không nhảy vào họng nhau bất lịch sự như vậy đâu!
Chỉ một lần cho mãi mãi, tôi đã không để hình ảnh khó chịu ấy lọt vào mắt mình lần thứ hai.
Tôi bị ám ảnh, một cách kinh sợ và ghê tởm, đối với một hình ảnh: giáo sư già giật micro của một người phát biểu trẻ tuổi để... tiết kiệm thời gian cho thứ gọi là Hội đồng khoa học. Với "phong cách khoa học miền Nam" đã hằn sâu vào đầu óc, vào chuẩn mực đời sống của tôi, thì từ đó đến giờ, tôi vẫn không bao giờ chấp nhận được điều ấy. Tôi cho rằng, ông ta chỉ dám giật micro khi thật sự ông ta cho rằng bản thân đã hiểu tường tận mọi tầng lớp của sự nghiên cứu, quá trình nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu bằng một thái độ trịch thượng và truyền giảng tôn giáo!
Chính hình ảnh đầy hãi hùng đó, với những nguồn gốc tiểu sử khác, đã dẫn tôi tới một cảm quan bi lụy về tương lai của bản thân tôi nếu dấn thân vào khoa học và về tương lai của khoa học nước nhà. Và cũng từ đó, tôi không ngại ngần gì vạch ra thứ chuẩn mực mà tôi gọi là "phong cách khoa học miền Nam", nhờ soi chiếu với những người thầy cũ đầy đức độ của tôi ngày trước, dạy khoa học "vỡ lòng" cho tôi, với một thái độ tôn trọng suy nghĩ của học sinh, dù sai hay đúng, phản biện bình đẳng và thẳng thắn với học sinh.
"Phong cách khoa học miền Nam" dường như rõ ràng không liên quan gì tới khoa học. Trớ trêu quá chăng?
Tôi không phân biệt Bắc và Nam để miệt thị điều gì và ai cả. Tôi phân biệt vì một kiểu "phong cách" đối xử với khoa học là một đầu mối vũ trụ quan trong khoa học và là thái độ của người làm khoa học quyết định thành tựu trong quá trình đi tìm chân lý.
Chỉ có một thái độ đúng đắn, thì Darwin mới viết ra thuyết tiến hóa. Chỉ có ở "phong cách" Mendel thì học thuyết di truyền mới ra đời.
Thêm nữa Jean Paul Sartre và Trần Đức Thảo tranh luận với nhau cũng không nhảy vào họng nhau bất lịch sự như vậy đâu!
Chỉ một lần cho mãi mãi, tôi đã không để hình ảnh khó chịu ấy lọt vào mắt mình lần thứ hai.
Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013
trước cái chết là bầu trời trộn sắc
Những lúc suy nghĩ lung tung về thế giới, tôi luôn băn khoăn về mối liên hệ giữa lý thuyết và hiện thực. Đặc biệt khi mối quan hệ ấy nằm trong những nỗ lực cực thân của con người để tác động đến thế giới khách quan.
Có một sự thật là tôi không thể nào trở thành một kẻ-biết-tư-duy có khả năng tư duy khác với lề lối mà tôi đã được học. Tôi chỉ là một 'tôi' duy nhất với cách tư duy đó: phương pháp luận biện chứng duy vật - biện chứng và duy vật. Đó là một cánh cửa đóng chặt, nhưng chưa hẳn mang lại an toàn cho ngôi nhà đời sống luôn khát khao yên bình. Lịch sử chỉ cần 1, nhưng đời sống luôn đưa ra 1 vài, kinh nghiệm hay trường hợp, về cách người ta trở nên duy ý chí hoặc không đủ khách quan, chứng tỏ phương pháp luận đó là vô cùng khó khăn đối với những ai thích xưng danh bản thân cùng với nó. Ông ta bảo ông ta biện chứng và duy vật, nhưng ông ta bản chất chỉ là một hình thứ biến thái hỗn hào mạo danh.
Cực kì khó khăn!
Tôi không nhớ trong lịch sử, ai là người đẩy cho phép biện chứng duy vật cái trách nhiệm cải tạo thế giới nữa. Nhưng người đưa đẩy đâu có tội. Tội nghiệp là những người phải thực hiện cái công việc cải tạo thế giới, khoác trên mình cái áo ấy. Vì có lẽ họ làm không nổi. Tôi cũng làm không nổi, nên chẳng bao giờ tôi làm gì cả.
Diễn giải thì được, còn kiến tạo thì sao? Nhất là khi thứ phải kiến tạo là xã hội? Trong giới hạn kiến thức mà tôi được tiếp nhận, thì một trong những tính chất đầu tiên của xã hội là sự đa dạng - một trong những tính chất nội tại đầu tiên của bất kì cộng đồng người nào, của toàn thế loài người và cũng là của thế giới. Và tính chất ấy quyết định cái gì ở việc người ta kiến tạo nên xã hội loài người đầy phức tạp? Hình như, chính đa dạng làm nên phức tạp? Hẳn đó là cả một quá trình. Quá trình của sự hỗn tạp, luôn bủa vây và sẵn sàng tát vào mặt bất cứ kẻ nào có ý định làm thuần nhất thế giới theo chủ nghĩa 'cào bằng'. Nhiều người có ước vọng thể hiện tính chất thống nhất của thế giới một cách mãnh liệt, duy ý chí: thay vì 'đa dang và thống nhất' thì lại là '(đa dạng và) thống nhất'.
------------------------------------------------------------------------------------
Loanh quanh xa xôi như vậy, cũng là vì tôi tự thấy nản lòng với thứ mà trí tưởng tượng vẽ ra cho tôi xem: Một đám người tóc bạc lơ phơ nhảy xồm lên như muốn hét vào mặt, vì chủ nghĩa 'tập thể' của họ đã bị tôi bỏ qua trong vài cái công thức, vài cái hình vẽ. Tập thể của họ không còn là một thể thống nhất mà là một tập hợp từ vô số những người muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm.
Nhưng ít ra những người muốn sống sao thì sống ấy, tôi thấy có sẵn cái vẻ khách quan hơn!
Rồi với giọng điệu chua chát, những ông già bà cả 'lão làng' sẽ phang thẳng vào mặt tôi không thương tiếc yêu cầu của họ: Quản lí như thế nào? Tôi có biết đâu, vì tôi đâu phải là nhà cách mạng.
Thật ra thì... nếu người ta thành công ào ào với phương pháp biện chứng duy vật theo phong cách triết học đời sống thì tôi sẽ thành... bác học!
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)