Thứ Hai, 30 tháng 3, 2015

phân tích fractal với tranh của Pollock - lược dịch

Sự khách quan khoa học đã trở thành một công cụ cần thiết để xác định nội dung cơ bản các tác phẩm trừu tượng do Jackson Pollock sáng tác vào những năm 1940. Pollock đã nhỏ sơn từ trong can đựng lên bề mặt của tấm vải bố lớn trải khắp sàn nhà kho. Mặc dù phương pháp không chính thống này đã được công nhận là một tiến bộ quan trọng trong sự tiến hóa của nghệ thuật hiện đại, nhưng chất lượng và ý nghĩa chính xác của những kiểu thức đã được tạo ra ấy vẫn bị tranh cãi. Ở đây chúng tôi sẽ mô tả một phân tích đối với kiểu thức của Pollock. Phân tích theo đó cho thấy, thứ nhất, họa sĩ đã tạo ra hình fractal, phản ánh các dấu vân tay của tự nhiên và thứ hai, số chiều fractal đã tăng lên suốt theo sự nghiệp của ông.

Để xác định nội dung fractal trong những tranh nhỏ sơn của Pollock, như bức Alchemy là ví dụ, chúng tôi sử dụng phương pháp 'hộp đếm' đã có từ lâu để tính số chiều D của fractal. Chúng tôi phủ lên ảnh scan của bức tranh với một lưới các ô vuông giống nhau tạo bởi máy tính. Số lượng các hình vuông N(L) chứa phần của mô thức sơn sau đó được đem đi đếm; điều này được lặp lại với k1ich thước L của hình vuông giảm xuống. Kích thước lớn nhất của hình vuông được lựa chọn để phù hợp với khung vải của tranh (L = 2,5m) và kích thước nhỏ nhất phù hợp với bề mặt tranh bé nhất (L= 1mm)... Phân tích của chúng tôi đối với một bộ phim được quay khi Pollock đang vẽ cho thấy các mô thức fractal thấp được xác định khi sơn nhỏ giọt xuống, còn ở mức cao hơn, những fractal được tạo hình khi họa sĩ di chuyển quanh khung vải bố. 

Phân tích của chúng tôi cho thấy Pollock đã luyện tập kỹ thuật nhỏ sơn của ông: số chiều fractal tăng đều qua các năm, từ gần bằng 1 năm 1943 cho đến 1,72 trong năm 1952. Vì giá trị D theo sau một quá trình tiến hóa rõ ràng với thời gian, cách phân tích fractal có thể sử dụng như một kĩ thuật định lượng, định tính để xác nhận cũng như định thời điểm với các bức tranh của Pollock. Sự thay đổi của giá trị D phản ánh mạnh mẽ tiến hóa trong cách nhìn. Những bức tranh đầu tiên của ông vào năm 1943 chỉ có một lớp quỹ đạo sơn chiếm chỉ 20% của khung vải 0,35 m vuông; vào năm 1952 ông vẽ nhiều lớp hơn che phủ tới 90% khung vải 9,96 m vuông. Điều quan trọng là Pollock giới thiệu các fractals của ông một cách hệ thống: lớp fractal ban đầu, về cơ bản, đã xác định gái trị D bằng cách hoạt động như một mỏ neo cho các lớp fractal tiếp theo -thứ sau đó đã tinh chỉnh giá trị của D.

Richard P. Taylor, Adam P. Micolich, David Jonas

http://pages.uoregon.edu/msiuo/taylor/art/Nature1.pdf

Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

từ nhánh cây cho đến cánh tay

6700 là con số khiến người ta phải giật mình. (Phải chăng là vì 6 + 7 = 13, số xúi quẩy?) Cho dù là cả 6700 thân cây to lớn giữa lòng thành phố hay 6700 cái chồi non giữa rừng nguyên sinh, thì đủ các nhân vật từ lớn đến nhỏ đã phải kêu la thẳng thốt, lẻ tẻ và lẻ loi. Tuy vậy, chưa thấy một chuyên gia hàng đầu về đô thị nào của quốc gia lên tiếng về vấn đề mảng xanh, nhỉ?

1. Liệu ta có thể hình dung một tương lai "phát triển bền vững" hoàn toàn được thực hiện để xem xét tầm quan trọng của các hoạt động, để hình dung tương lai - được rút gọn vào các khía cạnh xã hội, kinh tế hay môi trường, không chú ý đến tầm quan trọng về thẩm mỹ của một cuộc sống thường nhật? Chính vì thế với những điều kiện sống chấp nhận được đối với đa số mọi người, trong không gian và thời gian, có một ý nghĩa phức tạp hơn và nhạy cảm hơn một danh mục các hành động phát sinh từ một hệ tư tưởng đã bị xé nhỏ: giao thông bền vững, kinh tế năng lượng, thiên nhiên trong thành phố, chống mở rộng đô thị, v.v..

a - Một luận điệu được đưa ra nhằm bảo vệ quan điểm thay thế 6700 cây, nhưng đó không phải là thay thế, mà là quá trình khai thác và canh tác, đúng theo nghĩa đen của nó: đến thời điểm thì thu hoạch, sau đó gieo mới cây con.

Chúng ta đã không có cơ hội để xem được sự biến đổi chậm chạp nhưng có trật tự ở cùng một vị trí. Thiên nhiên không có cơ hội để vận hành các mối quan hệ tự nhiên bên trong hệ thống những mảng xanh ấy. Khi bầy côn trùng kéo đến, chim muông và thú nuôi tạo nên các mối quan hệ xã hội sâu sắc hơn.

Một sự nhắc nhở mang tính chất khoa học mạnh mẽ cho ta biết rằng hoàn toàn có khả năng diễn thế sau chưa chắc đạt được trạng thái từng có như khi thời điểm con người can thiệp ở quy mô xã hội. Bởi vì người ta đã không lựa chọn phương án tiêu giảm tính dễ bị tổn thương, nên tiểu hệ thống ấy hoàn toàn có thể sụp đổ hoặc thất bại. Nghĩa là những cây con mới trồng thuộc một loài khác, hoàn toàn có thể bị sâu hại, bệnh tật, mà lại không có một thiên địch nào. Vì các loài chim hay côn trùng đang tồn tại trong các mảng xanh khác đã hoàn toàn đi theo một hệ thống của riêng chúng. Hay trong một nguy cơ khác, những cây con thuộc loài mới có thể thu hút những loại côn trùng, có mức độ xâm hại cao, gây ảnh hưởng đến những mảng xanh vốn có gần kề đó.

b - Có người cho rằng dư luận dậy sóng là do thiếu hiểu biết về một cái nhìn phát triển (!?)

Dư luận đó không phải là vấn đề quản lí thông tin, vấn đề truyền thông hay chuyện của tuyên giáo, mà đó là một thái độ xã hội có thể nhìn thấy. Mối quan hệ giữa con người và môi trường sống gắn bó hữu cơ theo ý nghĩa sinh thái: để có thể chấp nhận là một nơi sống được, ở đó ít nhất cần phải có cây xanh.

Có thể tiến hành diễn giải các khái niệm liên quan tới một chính sách thành các yếu tố cụ thể, thì việc người ra chính sách và người chịu ảnh hưởng bởi chính sách hoàn toàn có khả năng thuộc về những nhóm khác nhau trong xã hội, thậm chí những tầng lớp khác nhau. Điều đó cho thấy nhiều vấn đề cần được đánh giá nghiêm túc, để có giải pháp đúng đắn và tránh sự xuyên tạc, trừ khi khoa học bị loại bỏ.

Trong quá trình tiến hành, một lần nữa người ta đã không lựa chọn cách giảm thiểu khả năng bị tổn thương của mối quan hệ sinh thái giữa con người và môi trường, cũng như tự đánh mất đi khả năng điều chỉnh mối quan hệ đó một cách chậm rãi và chắc chắn. (Lí do rất đơn giản nằm trong một chữ: ngu!)

Cần coi bất bình đẳng môi trường ở thành phố giống như bất bình đẳng xã hội và lãnh thổ trước khả năng và tài chính mà người dân và chính quyền địa phương phải giải quyết để cải thiện môi trường, thành nơi có thể sinh sống.

c - Như vậy, trở lại với cái nhìn phát triển, không thể đánh giá sự thay đổi của đời sống bằng ý chí của một chính sách hay cái cảnh quan mà một thiết kế tạo ra. Điều đó cũng đồng nghĩa với chỉ chăm chút cái biểu hiện mà không hề đạt được nội dung tương xứng. 

Người ta hi vọng tạo ra được một không gian ổn định với cảnh quan đúng như thiết kế quy hoạch. Trong ý chí tạo lập không gian, ngành quy hoạch dường như hoàn toàn làm chủ mọi khía cạnh. Nhưng chỉ cần một lỗi sai cơ bản, hay thiếu sót ở mức nhạy cảm nhất, tất cả cộng đồng đều có khả năng sụp đồ trước một quy hoạch. Điều này đã thấy với cái khu dân cư trống, bị bỏ hoang dù cho thiết kế ban đầu có vẻ rất ổn.

Trong phạm vi cố gắng chấp nhận, sự phân chia đời sống thành các hệ thống tự nhiên, kinh tế, xã hội gì đó theo cách diễn giải của phong trào phát triển bền vững đã chỉ ra được các yếu tố vận hành có nguyên tắc chung. Tuy nhiên, ở đó thiếu hẳn cái nhìn sinh thái với các quan hệ gắn bó, mà kết quả tạo ra sự vấp váp khi giải quyết một vấn đề ở mức độ khía cạnh mà không phải là mức độ mối liên kết.

2. Đối với hệ thống xã hội, dù cho có là một phần được gọi tên trong chương trình phát triển bền vững, nhưng thiếu đi cái nhìn liên kết, người ta vẫn có khả năng lầm tưởng phản ứng của dư luận bị gây nên bởi nhân tố xã hội. Kết quả là bao nhiêu biện pháp về truyền thông, về pháp chế được áp dụng cuối cùng cũng lạc khỏi mục tiêu và phản tác dụng.

Thiếu tính đàn hồi, thiếu đi sự thích nghi, một trạng thái bền vững nhìn thấy thật ra là một bề mặt ổn định cứng ngắc và dễ vỡ. Một cách nhìn liên kết hơn, sinh thái hơn đề nghị cách giải quyết tốt hơn đối với các vấn đề nhiều mặt trong đời sống thực tế mà không bỏ qua các vấn đề môi trường hay con người.

(Nhưng mà kệ mẹ mấy người... há há..)











Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

Sự ngược ngạo thời đại

Xã hội học diễn giải về tiểu văn hoá: Các nhóm, các cộng đồng của mỗi xã hội đều xây dựng những khuôn mẫu hành vi, các quan điểm, các giá trị đặc trưng của mình. Thông thường chúng phù hợp với các chuẩn mực, giá trị chung của xã hội. Khi tập hợp các giá trị của các chuẩn mực, khuôn mẫu hành động của nhóm khác biệt với các chuẩn mực chung, nhưng không đối lập với chúng thì trong các nhóm xã hội đó đã có một nền tiểu văn hoá.

Từ nhỏ, tôi đã từng nghe về tách cà phê rắc bột vàng của nhà ông Trần Trọng Kim, thứ mà đối với vài người ngay thời điểm này vượt ra ngoài trí tưởng tượng. Rồi tôi lại từng nghe chuyện đói khát, chuyện nghèo túng và trải qua nó. Chuyện gia đình ông cán bộ đi ra chợ mua vài kí thịt bò rồi vừa về hưu được vài năm ông ta tai biến mà chết. Đủ thứ loại chuyện trên đời trôi qua, trôi qua. 

Tôi chưa bao giờ nghĩ một cách đơn giản rằng 'phú quý sinh lễ nghĩa'. Thứ đối đãi giả dối ấy theo đúng nghĩa của nó không phải 'lễ nghĩa'. Thậm chí, cái hình thức của đời sống thực sự ra chẳng liên quan gì mấy đến tiền tài. Trong cái mớ hỗn độn này chỉ có cách sống mới sinh đẻ ra mọi thứ. Về lí thuyết, ai chứng minh được? Sẽ là đi ngược lại sự rao giảng.

Trong cơ chế của ảnh hưởng văn hóa đối với đời sống xã hội, điều đặc biệt quan trọng là: văn hóa xác lập các hệ thống giá trị và những tiêu chuẩn quyết định giá trị.

Trong lối sống của mình, con người luôn luôn muốn sống và sáng tạo theo những quy luật của cái đẹp. Cần phải nhấn mạnh tính chất căn bản của xu hướng ấy; bởi vì một số người đôi khi không đánh giá nó đầy đủ. Đối với họ, các quy luật kinh tế thể hiện rõ hơn nhiều so với những quy luật của mĩ học. Nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là vai trò của những quy luật mĩ học trong đời sống của cá nhân và xã hội bị giảm bớt. Cùng với các quy luật khác, các quy luật mỹ học là cơ sở của đời sống con người. 

Câu chuyện được truyền miệng: Mùa sen đến, bà chủ gọi người gánh bông đến đầy phòng khách. Số lá sen đi kèm đem lót ở nơi cho trẻ con trong nhà chơi đùa. Bông cắm bình thì không cần nhiều, một phần để ướp trà, một phần để đem cúng.

Có nhà nông thích tự trồng lấy hoa lá. Trong mỗi chậu là hạt giống của một loài. Đợi đến đúng mùa đem ra ngắm nghía chứ không đem ra chợ bán. Sự yêu chuộng thiên nhiên bản địa khiến con người có phong thái thanh cao đặc biệt dù nghèo hay giàu. 

Ikkyu đặt tên cho một tập thơ của mình là Kioun, và tên đó trở thành bút danh của ông. Trong tập thơ này, và cả trong những tập sau đó của ông, có những câu thơ không có trong thơ Nhật Bản thời trung đại, nhất lại là trong thơ Thiền, bởi vì chúng quá mới lạ và có những chi tiết riêng tư, tình ái đến mức làm người đọc phải bối rối. Ikkyu không quan tâm đến giới luật và những điều cấm đoán của Thiền đạo: ăn cá, uống rượu, gặp gỡ với phụ nữ. Vì tự do, ông đi ngược lại những luật lệ của nhà chùa. Có thể, vào cái thời tao loạn đó, khi cái đạo người bị hư nát, nhà thơ muốn khôi phục lại sự tồn tại đích thực của con người cái cuộc sống thực sự tự nhiên, củng cố tinh thần của mọi người.

Mọi thứ quá phức tạp để tội có thể tự giải đáp cho mình. Nhưng mỗi khi tôi gặp ai, sự tiếp xúc giống như chiếc ăng ten bắt sóng. Quá trình sau đó sẽ tự khởi động, tôi không sắp xếp những người tôi gặp theo tuổi, theo giới tính mà theo cách họ sống, nhìn nhận cuộc sống.

Sách vở nói những điều như thế, như thế, nhưng kiểm nghiệm từng điều một qua đời thực bằng trăm ngàn lần suy ngẫm đơn thuần. 

Sự che giấu, ẩn nấp là thứ tôi chưa thấy sách nào ghi vào cả. Nhiều người, cái vẻ ngoài và cách họ sống khác biệt nhau. Thật ra, những người đó đâu có thuộc về thứ họ đang cố gắng bám lấy. Nhìn ra chân tướng cũng giống như đọc được tương lai, trong cái sự thú vị đem so sánh với nhau.







Thứ Ba, 10 tháng 3, 2015

thêm một vở tuồng

Năm mới năm me, chắc hẳn trong mấy ngày vừa qua, ông Ngô Kinh Luân ở báo An ninh Thế giới Giữa tháng đã được dịp sáng mắt sáng lòng. Đời người có thiên biến vạn hóa, trong cái vạn nhất có khi cửa sinh cửa tử mập mờ giữa sương mây. Rõ ràng là không phải đầu óc người ta lúc nào cũng thấu đáo. Vì cớ đó mấy ông đồng bà cốt luyên thuyên từ Tử vi đẩu số tinh diệu vượng hãm, gieo tiền trinh ba đồng sáu hào tới ngắm chỉ tay, tướng số phán chỉ vận mạng mới có vài đồng rủng rỉnh. Biết trước cái vận hạn của mình, mở mang được cái bí cõi thâm tâm thì quá là lợi. Cho nên chính ông ấy cũng không mấy kìm nén mà chia sẻ cái hân hoan đó cùng bạn xem báo: '... và từ những ý này lần đầu tiên tôi được am tường...'

Nhưng hỡi ôi, ít ra trên mặt giấy tờ Người giữ lửa, các ông bà ấy bênh vực cho một ông lang chữa ung thư, thì vẫn còn cái động cơ 'còn nước còn tát', cứu người cứu đời, còn đằng này, ông nhà báo lại đi cầu ông Giáo sư T.N.T để xem về cái văn nước chúng mình cơ chứ!

Không ai còn lạ gì cái kì tích mà ông Giáo sư Giám đốc Trung tâm Lý luận này làm ra: với vị thế đáng nể trong ngành ngôn ngữ, ông Giáo sư ấy không hiểu từ đâu mà 'tri thiên mệnh' để chuyển qua tìm tòi về văn hóa. Trong độ chục năm, rồi thêm chục năm nữa, nhờ lực đẩy nào đấy, giờ đây người ta thấy ông lên truyền hình trong loại chương trình văn hóa đời sống, nhiều như ca sĩ trong giờ ca nhạc.

Nói về cái công trình đồ sộ về văn hóa của ông giáo sư này, có rất nhiều người với tri thức uyên bác, hiểu biết sâu rộng và có một thái độ đúng mực trong khoa học đã lên tiếng. 

https://nguvandhag.wordpress.com/2014/02/17/doc-quyen-tim-ve-ban-sac-van-hoa-viet-nam-cua-tran-ngoc-them/ Giáo sư Lê Thành Khôi:  Ðể kết luận, tôi thấy quyển sách của ông T... có hai phần. Phần có giá trị là khi tác giả phân tích văn hoá Việt Nam. Có những trang rất lí thú về đời sống cá nhân, văn hoá ứng xử với môi trường: ăn uống, mặc, ở và đi lại, tuy có khi người đọc có thể không đồng ý về điểm này hay điểm khác. Phần yếu kém của quyển sách là khi tác giả khái quát mà không có chứng minh khoa học, đặt cơ sở lí luận trên sự phân chia hai loại hình văn hoá, trọng tĩnh và trọng động, theo nguồn gốc nông nghiệp hay du mục của nó. Lịch sử thế giới không chứng minh lí luận đó: phần lớn các văn hoá khi xuất hiện ở phương Ðông cũng như ở phương Tây đều phối hợp nông nghiệp và du mục (tuy với trình độ khác nhau). Chỉ trong một số trường hợp vì hoàn cảnh địa lí khí hậu ta thấy chỉ có nông nghiệp (các đồng bằng Ðông Nam Á Châu) hay chỉ có du mục (Trung Á, Trung Phi, bán đảo Ả rập v.v.). Ðứng về phương diện phương pháp luận, để giảng nghĩa một sự kiện lịch sử xã hội, “gốc” không quan trọng bằng các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá đương thời. Gốc là một khái niệm khái quát quá, lờ mờ quá, nhất là một gốc du mục hay nông nghiệp đưa ra nhiều xã hội khác nhau. Nhiều ý niệm khác tác giả dùng cũng không ở trong phạm trù khoa học: tính âm, tính dương, tính tĩnh, tính động, của một văn hoá là gì? Chữ tính hàm ý không thay đổi, hay không thay đổi trong một thời gian lâu, và có ở tất cả mọi người, dù là nam hay nữ, ở địa vị này hay địa vị nọ, ở đẳng cấp, giai cấp này hay đẳng cấp, giai cấp nọ. Sự thật thì cái gì cũng thay đổi, chậm hay nhanh. Có khi vì muốn đề cao văn hoá nước mình, tác giả đã quên nhiều sự kiện lịch sử. TNT cho rằng hai truyền thống quan trọng của Việt Nam là “dân chủ” và “trọng tình” (tr. 498): “vua nông nghiệp… coi dân như con cháu mình” (tr. 206: có bao nhiêu ông vua như thế?); “các cuộc chiến tranh mà người Việt Nam từng phải thực hiện đều mang tính tự vệ (cả) với người Chiêm Thành” (tr. 498). Năm 1471 Lê Thánh-tông đánh Chiêm Thành để “tự vệ” hay để mở mang bờ cõi? Sau khi chiếm thủ đô Chăm, Lê Thánh-tông đã giết hơn 40 000 người và bắt hơn 30 000 người về để làm gia nô hay điền binh (Ðại Việt sử kí toàn thư). Ðó có phải là một hành động “trọng tình” không? Tôi thì gọi nó là dã man, lấy làm hổ thẹn, chỉ biết … tạ lỗi với người Chăm. Gần đây cuộc cải cách ruộng đất có “trọng tình” không ? Và bây giờ các chủ nhân xí nghiệp “gốc nông nghiệp” đối xử với công nhân “trọng tình” hay “bóc lột” như người mác-xít vẫn nói? Nói chung các văn hoá “gốc nông nghiệp” bây giờ “trọng tình” hay “trọng tiền” hơn ? 

http://kattigara-echo.blogspot.com/2012/10/tran-ngoc-them-va-ieu-kien-te-hai-cua.html Ông Giáo sư tiếp tục bị phản bác về mặt lịch sử: Có một số học giả nghiên cứu về di truyền học và cố gắng kết nối những người nói các ngôn ngữ Nam Á với nhau. Tuy nhiên các học giả này nói về một khu vực trải từ Ấn Độ đến Việt Nam, chứ KHÔNG PHẢI là nam Trung Quốc và các vùng bắc bán đảo Đông Dương. Về vấn đề này, có thể xem sơ đồ mô tả sự triển khai của người nói các ngôn ngữ Nam Á từ Ấn Độ đến Đông Nam Á trong bài viết gần đây: [Nguồn: Vikrant Kumar, et. al., Asian and Non-Asian Origins of Mon-Khmer- and Mundari-Speaking Austro-Asiatic Populations of India, published in American Journal of Human Biology18 (2006): 467].

http://www.gio-o.com/CaoTuThanh/CaoTuThanhTranNgocThem.html Gay gắt hơi thì có mấy lời thế này: Chính vì vậy mà quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam đầy rẫy những lập luận ngụy khoa học và kết luận phi lịch sử kiểu “... tên gọi các đối lập cơ bản, thiết yếu (cũng tức là xuất hiện trước nhất) đều tuân theo thứ tự âm trước, dương sau : âm dương, vợ chồng, chẵn lẻ, vuông tròn... (tên gọi các đối lập không cơ bản như cha mẹ, ông bà... xuất hiện muộn hơn, do vậy đã chịu ảnh hưởng gốc du mục trọng nam, trọng dương tính)” (tr. 91). Thật không sao tin nổi rằng tiếng Việt có từ “vợ chồng” trước khi có những từ như “bố cái”,”cha mẹ”, và thật không rõ vì sao tổ tiên ta lại nói “đực cái”, “trống mái” mà không nói ngược lại cho nó trọng âm, trong khi chắc chắn họ phải có ý niệm về đực cái trống mái trước khi có ý niệm vợ chồng mà cũng không cần gì chịu ảnh hưởng của văn hóa gốc nào. Hơn thế nữa, nếu triển khai lập luận và kết luận ấy thì có lẽ ngay cả các nhà ngôn ngữ học cũng đớ lưỡi không nói được các từ ghép loại sông núi - núi sông, trắng đen - đen trắng, ngày đêm – đêm ngày, gạo thóc - thóc gạo là được cấu tạo theo thứ tự trọng âm hay trọng dương ! Bởi vì âm dương là một cặp khái niệm biểu kiến trong tư duy triết học của người phương Đông cổ, nó phản ảnh và khái quát hóa một cách đơn giản nhưng hàm súc sự khác biệt mang tính thống nhất biện chứng giữa các hiện tượng, lãnh vực và quá trình của thế giới chứ không phải là bản chất hay thuộc tính của các hiện tượng, lãnh vực và quá trình ấy... như lối nhận thức và suy diễn của T. N. T.

http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/ve-mot-thai-do-vi-chung-van-hoa.html Ở đây cũng góp thêm vào: Khi đem khái niệm văn minh du mục và văn minh trồng trọt làm chuẩn mực phân tích tìm kiếm lẽ dị biệt của văn hoá phương Bắc và văn hoá phương Nam, tác giả đã đưa người đọc vào một cảnh quan học thuật đầy hứa hẹn với những hướng kiến giải mới, những tư liệu mới,những vấn đề mới rất thú vị. Ở đây, tác giả có vẻ như cổ suý cho một thứ quan điểm sinh thái học mà nhà nhân học Marvin Harris đã đề xướng theo đó "cách người ta sản xuất lương thực và những nhu yếu phẩm khác như thế nào giải thích nguồn gốc và sự phát triển của nhiều tập quán văn hoá"[1]. Nhưng mặt khác, khi cắt nghĩa nội dung của các thành tố văn hoá cụ thể trên quan điểm chống một chủ nghĩa lấy Trung Hoa làm trung tâm, tác giả lại bộc lộ thái độ vị chủng trong xu hướng đề cao văn hoá Việt Nam khi so sánh với văn hoá Trung Hoa."Người có thái độ vị chủng có xu hướng đánh giá tất cả các nền văn hoá khác theo các tiêu chuẩn riêng của mình và coi chúng là thấp kém, không tự nhiên, hoặc sai, khi các nền văn hoá đó có gì khác biệt"[2]

Gần đây người ta lại thấy xôn xao công trình mới của ông Giáo sư về văn hóa Tây Nam bộ, thiệt là khôn tưởng. Coi như số ông khổ vậy, nhưng đền bù vào đó, về sau tên ông chắc chắn là sẽ được ghi vào lịch sử. Lamarck vì nói con hươu cao cổ có cổ dài vì nó muốn ăn lá trên cành cao mà được lưu truyền trăm năm đấy thôi. Ông Giáo sư viết được cả một cuốn Tử vi Đẩu số Toàn thư cho ngành Văn hóa cơ mà.

Vậy là ông nhà báo coi như cũng tìm được đến chốn cần đến. Phỏng vấn mà được một bài dài kín hai trang khổ lớn, đôi khi cũng là ước mơ của đồng nghiệp. Nhưng còn việc suốt năm nay đền có linh, miếu có thiêng không thì phải chờ coi duyên nhà báo với thánh thần đến cỡ nào. Cũng nhân đây có lời cùng ông nhà báo, vận đi liền với hạn, năm nay chớ có gặp thêm ai nữa. Lỡ như người ta theo phe thực chứng, phe xã hội, phe lịch sử thì e rằng ông không có bài đúng hạn cho biên tập đấy. Hi vọng suốt cả năm nhà báo sẽ nhìn thấu thế gian, hiểu rõ nhân tình với cái 'văn hóa ổn định' cùng 'văn hóa phát triển' (!) (Té ra nói chuyện một hồi nước chúng mình bao năm đầy biến động vẫn là gom vào 2 chữ 'ổn định'? Đến bây giờ mới cần có một văn hóa mới để phát triển khi lần đầu tiên nếm được vị phát triển? Các ông bà nào bỏ sức ra nghiên cứu xã hội hậu chiến để tìm cách chỉnh sửa cho cuộc sống tốt đẹp hơn đều là phản động?!)

Còn cái văn của chúng mình sẽ thế nào? Suốt dạo gần đây, việc nước có nhiều chuyện thiên hạ nói ra nói vào, cái nào cấy nấy xem chừng cũng căng thẳng cả, từ một ông già vận đồ tía, bộ bàn ghế chạm hình rồng đến máu me, cướp bóc. Đến cái cột đèn cũng nghĩ đến sự thay đổi, chứ chả phải mình ông Giáo sư. 'Nói thì dễ làm mới khó' xem chừng là câu chua ngoa nhất trong thời điểm này. Càng mỉa mai hơn khi Giáo sư cứ mơ hồ quần thảo mãi trong nguyên tắc: 'Nguyên tắc là kiểm xem hiện nay có những tật xấu nào là tệ hại nhất, xác định xem cái gì là nguyên nhân dẫn đến tật xấu đó và làm ngược lại là xong.' Cái khó khăn của toàn xã hội mà gom vào mỗi hai chứ 'tật xấu', lật ngược một cái là xong thì cả khoa Xã hội kia đóng cửa!

Dù sao thì ông Giáo sư đúng là tiến sĩ khoa học ngành ngữ văn có khác, nói chuyện ngọt tai nhưng khi bàn về cái văn hóa thì có lẽ cần chút đơn giản mà bỏ bớt sự rườm rà. Người đời kính lão đắc thọ thì ông sẽ có thêm phúc đức ấy mà.