Thứ Ba, 11 tháng 7, 2017

Thưởng thức mỹ thuật qua internet: tiếp nhận minh họa?

Từ lâu, đã có nhiều ý kiến phản đối việc người ta nghe nhạc mãi trên máy mp3, trên máy phát đĩa. Người ta phản đối rất dữ dội nhạc thính phòng chủ yếu phát trên Youtube.

Vậy còn tác phẩm mỹ thuật thì sao?

Không thể phủ nhận rằng nhờ internet mà giờ đây người ta dễ dàng xem tranh của Van Gogh, Rembrandt... Gần như tất cả các tác phẩm của các danh họa nổi tiếng cũng như những họa sỹ quan trọng khác mà lịch sử quên mất họ lâu nay. Chỉ cần một ảnh chụp tốt, rõ ràng hay một bản scan kỹ lưỡng hay một video cận cảnh được đưa lên mạng, gần như cả thế giới đều có thể coi xét. Nhưng thật ra cả thế giới chỉ trông thấy được hình chụp hoặc bản scan của chính tác phẩm đó mà thôi.

Hệ lụy của hình thức đó xảy đến nhanh. Trước hết, hệ lụy đối với khán giả mang tính số đông, toàn thể, tức là mang tính xã hội. Kinh nghiệm thẩm mỹ trực tiếp trong sự tiếp xúc với tác phẩm bị mất đi: cảm xúc thể xác về khoảng cách khi đứng trước tác phẩm không còn, tương quan giữa kích thước thật sự của tác phẩm so với tầm nhìn cố định của con người không còn, màu sắc và sự tạo lập chất liệu chân thật của tác phẩm trong tương tác với không gian - thời gian - hệ vật chất chung quanh nó không còn, sự phản tư về niềm vui của chính người xem đối với tác phẩm do đó không còn. Khán giả internet giờ đây chỉ còn thấy một hình ảnh mang đầy tính minh họa cho tác phẩm. Hình ảnh đó cho người ta biết một cách sai lệch so với sự chính xác chân thật của tác phẩm, thu gọn nội dung vào một số khía cạnh: tranh đó vẽ gì, bố cục gì, chất liệu gì, màu sắc gồm những gì, ý nghĩa gì. Cả một số đông trong xã hội từ sự việc tiếp nhận ấy xác định một hiện thực khá sai lệch so với tác phẩm thật, và mọi bình luận, chia sẻ thậm chí phê bình đều ở trên không gian màn hình, online đó.

Ngược với hiệu quả áp đảo, bắt buộc mà tác phẩm chân thật đặt lên khán giả, hình ảnh minh họa trên internet gây ra sai lệch trong trải nghiệm thẩm mỹ trong khía cạnh sinh lý thị giác của con người. Quá trình đó đưa đến xu hướng coi trọng truyền đạt thông tin, gửi gắm cái gì đó có thể tư duy được - một trong nhiều chức năng cơ bản của việc minh họa, trong lúc địa hạt cảm giác bị đẩy lui dần. Khán giả internet trong chính tính chất số đông của cách gọi đó, đưa ra cũng từng ấy nhận định từ một nguồn thông tin được minh họa. Đồng thời, nhu cầu thẩm mỹ đòi hỏi phải có sự bù đắp trong chính bản thân phương tiện đó, hay nói cách khác là phương tiện làm nên môi trường internet đó. Và tất nhiên, một sự bù đắp đầy đủ, cho phép phương tiện làm nên internet mang vác được tính thẩm mỹ, không còn là sự bù đắp về phương tiện thị giác thông thường hay đơn thuần. Người ta không thể điều chỉnh môi trường internet như điều chỉnh ánh sáng trong nội thất gian triển lãm, khoảng cách giữa các tranh... mà thay vào đó là trang thiết bị, kích thước màn hình, độ phân giải, photoshop, layout và design... Đó là một trong những lý do thực tế ảo hay hơn mạng xã hội và khiến Instagram trở thành một mạng xã hội hình ảnh tốt hơn Facebook. Và sự thất bại của hình minh họa của tác phẩm mỹ thuật vẫn còn nguyên đó.

Còn đối với một họa sỹ, ảnh hưởng của vấn đề sâu và rộng hơn bởi vai trò vừa sáng tạo vừa thưởng thức và vừa phản tư của chính người họa sỹ đó.

Sáng tác bằng các chất liệu hiện hữu giữ họa sỹ ở lại với kinh nghiệm thẩm mỹ cụ thể, với cảm giác được xây dựng bằng giác quan cơ thể. Tuy nhiên, ảnh hưởng từ môi trường internet vẫn chẳng e ngại gì mà vươn hết các vòi xúc tu của nó. Họa sỹ, trước tiên vẫn là một khán giả rồi mới đến một người sáng tạo. Nếu công thức sáng tạo thẩm mỹ (cứ cho là có thứ ấy) được cộng dồn thêm nhiều phần thông tin, ý tứ cũng như cộng thêm nhu cầu thông tin, tư duy trừu tượng thì một trải nghiệm thẩm mỹ hữu thể biến thiên như thế nào?

Số phận của một tác phẩm thật đối với hình minh họa cho chính nó không phải là câu chuyện mới đây. Rất nhiều các danh tác trước nay được minh họa lại trong sách, tạp chí bằng các kỹ thuật đồ họa minh họa. Nhưng vấn đề rất khác ở chính sự tồn tại của chúng so với môi trường internet. Với một kích thước không đổi, những chi tiết biểu đạt, phương tiện vật chất cá biệt và tính chất áp đảo trong cái nhìn, các bản in ấn đó nhiều hơn rất nhiều một tóm lược bố cục và nội dung. Bản thân những tranh minh họa lại các tác phẩm cũng chính là một tác phẩm theo nhiều khía cạnh khác nhau.

Vài họa sỹ Đồ họa nước nhà hiện nay truyền nhau cái kinh nghiệm tránh né giấy trắng khi in tranh trắng đen (dù bằng các kỹ thuật kinh điển) vì "trông tựa bản photocopy". Bản thân người viết không thể không hồ nghi một ảnh hưởng mạnh mẽ từ môi trường internet, hoặc ít ra là từ các ảnh chụp tác phẩm - thứ sau đó được lan tràn trên mạng, lên quan niệm đó. Bởi chính lối quan niệm như vậy đã cho thấy động tác loại trừ trải nghiệm thẩm mỹ trong đời sống cụ thể. Tác phẩm khi đó chỉ còn một công thức cộng của bố cục, chi tiết hình ảnh, độ đậm nhạt. Công thức này rất khác xa so với một trải nghiệm thẩm mỹ (ban đầu), khi tác phẩm được nghĩ như mang vác một thế giới - có thật hoặc không thật - mô phỏng, xây dựng lại với cái đẹp thống trị, thông qua sử dụng chất liệu.

Vậy còn những biểu hiện nghệ thuật 'chống đối lại internet' thì sao? Rất không may rằng môi trường internet là một dạng thực tại, chứ không phải một thứ phi nghệ thuật để có thể chống đối bằng nghệ thuật. Chuyển đổi từ thực tại nghệ thuật sang thực tại internet hay thực tại đời sống thường nhật là quá trình xã hội. Cơ may thành công cho những biểu hiện mang danh nghĩa chống internet về khía cạnh trải nghiệm thẩm mỹ như vậy không nằm ở mặt xã hội của nó: tức không nằm ở việc minh họa cho bất kỳ thông tin hay tư duy trừu tượng nào.

Cuối cùng, khi xem báo đài, xem truyền hình hay tham gia internet, người ta vẫn tự nhiên có quyền thích hay không thích, khen ngợi và nhận định tùy ý. Đương nhiên, cái đẹp trong sự suy nghĩ của mỗi người, của mọi người và trải nghiệm thẩm mỹ hữu thể thực sự trong đời sống với cảm giác thuần túy và siêu nghiệm là hai khía cạnh rất khác xa nhau













Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2017

kỹ thuật xây dựng đậm nhạt trong nghệ thuật đồ họa

Đối với những người vô cảm, thiếu tinh tế, đậm nhạt chỉ là từ sáng tới tối, hay ít cảm nhận hơn nữa, là từ đậm tới nhạt. Trong cảm giác trực diện đem đến qua cảm nhận thị giác, đậm nhạt là sáng tối được diễn tả bằng những cách thức trình bày duy nhất với những cấu trúc rung động.

Cách thức đường nét, mảng miếng: nét đen, nét trắng đan xoắn rối rít theo từng cách cho từng biểu hiện cảm xúc cụ thể, nét contour hằn đậm vị trí hình cho sự hình dung lý trí về đối tượng. Mảng đen mảng trắng phối hợp cùng nhau khi quan sát từ xa có thể cho thấy sắc độ của đậm nhạt, sáng tối.

Halftone là một dạng cấu trúc đen siêu nhỏ, lặp đi lặp lại theo tần số nhất định, biểu thị thành đậm nhạt. Bitmap là một dạng như vậy, có hình tròn, hình thoi, tam giác đủ thứ trên đời. Halftone cho ra hình ảnh vờn tả nhiều độ đậm nhạt, nhưng khô cứng trong biểu hiện.

Granulating là các điểm tròn, gần tròn, đa dạng kích thước, tập hợp thành cách biểu thị sáng tối đậm nhạt, đồng thời tạo cảm giác mảng xốp, biến chuyển giàu xúc cảm.

Layer và độ trong suốt. Ai cũng biết layer là lớp. Lớp màu mỏng, trong suốt cho ra hiệu quả sắc độ khác với lớp màu đục hay lớp màu dày, làm phong phú các biểu hiện.

Tại sao lại là Kathe Kollwitz? Bà là một họa sỹ đồ họa, hơn hết là một họa sỹ biểu hiện.


Chủ Nhật, 26 tháng 3, 2017

Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn còn nhiều phần lịch sử không biết phải tìm ở đâu.Video ngắn về ký họa Đông Dương, thực tế là tranh in đá, coi ở đây.

Thứ Năm, 9 tháng 3, 2017

Triển khai, khẳng định và xác lập một tạo hình: một quá trình của tư duy

Hầu hết các kĩ thuật chất liệu tranh in mỹ thuật đều phải trải qua việc thực hiện những công việc như sau: 
Bước chế bản thực hiện tạo bản khắc/trổ trên vật liệu tạo bản; 
Bước lăn/bôi mực thực hiện với mực hay màu in phù hợp để hình ảnh sẵn sàng cho việc in;
Bước in thực hiện với lực ép lớn và giấy in phù hợp, chuyển hình ảnh từ bản khắc/trổ lên bề mặt giấy.
Bất kì một bước nào nếu thiếu đi, sẽ khiến quy trình in không hoàn tất, không tạo ra được ấn phẩm. Điều này cho thấy sự quan trọng của tính chất nhiều giai đoạn trong quy trình in ấn. 
Với các công đoạn chính trong quy trình in tranh, ý đồ ban đầu chuyển thành tạo hình trong tác phẩm. Xét về ý nghĩa đối trong sáng tác, công đoạn chế bản đóng vai trò triển khai tạo hình tác phẩm với dự tính về tính liên tục của vùng có mực. Công đoạn cung cấp mực khẳng định tạo hình đã có bằng tính đồng đều trong phân bổ của lớp mực. Công đoạn in xác lập tạo hình của tác phẩm trên giấy in. Phải qua tất cả các công đoạn với ý nghĩa tương ứng, ấn phẩm mới có được tạo hình cuối cùng. Mỗi một công đoạn như vậy, còn cho phép người thực hiện lựa chọn – chấp nhận những thay đổi phù hợp trong phạm vi cho phép.
Công việc chế bản chỉ mang một ý nghĩa triển khai tạo hình, bởi lẽ tính chất bố cục của khuôn mẫu dùng cho việc in, không phải là tạo hình tác phẩm. Trong tranh in màu, mỗi khuôn mẫu phục vụ cho việc in một lớp màu, càng không phản ánh được tạo hình cuối cùng. Chế bản cho tranh in khắc gỗ, in khắc kim loại, in đá thực hiện với hình ảnh ngược của tạo hình tác phẩm. Chế bản tranh in lụa tuy xuôi chiều, nhưng là âm bản. Do đó, công việc chế bản không phải là tạo hình. Có trường hợp họa sỹ trưng bày mộc bản – ván khắc của tranh in khắc gỗ, nhưng với các loại hình khác thì không thể trưng bày các bản kim loại hay đá in, nên đó chỉ là một biểu hiện nghệ thuật khác, liên quan đến tranh in khắc mà thôi.
Khẳng định tạo hình qua công việc cung cấp mực cho các khuôn mẫu cho phép người thực hiện lựa chọn khu vực hình ảnh nào sẽ xuất hiện như dự tính hoặc không và lựa chọn màu mực. Điều này là dễ thấy nhất trong kỹ thuật in khắc kim loại, dù bản kim loại đã được khắc nhưng không bôi mực hoặc chặn mực lại trong quá trình in, hình ảnh sẽ khác đi (hình 29 và 30). Đối với kỹ thuật monotype, điều này là không thể bởi cả hai công việc chế bản và cung cấp mực in đã hòa thành một. Những sự thay đổi từ việc cung cấp mực, mang ý nghĩa khẳng định lại tạo hình đã dự tính: chi tiết sự vật, màu sắc… không làm phát sinh hay thay đổi các sắp xếp bố cục của tác phẩm. Các ấn phẩm in ra có sự khác biệt trong giới hạn cho phép đó, vẫn là bản gốc, được đánh số và ký tên trong cùng một tập tranh.
Công đoạn in mang ý nghĩa quan trọng, để xác lập tạo hình của tác phẩm lên giấy. Bản chất của việc in được xem như tiêu chí để phân loại ra các loại hình in nổi, in lõm, in xuyên hay in phẳng. Đó cũng là cách mà tạo hình cuối cùng của tác phẩm, qua phối hợp các phần hình – màu khác nhau, được hình thành, gồm cả những dự tính về hình ảnh và những biểu cảm riêng của loại hình. Những tiêu chuẩn về kỹ thuật trong việc in vì thế cần được tuân thủ, vận dụng cho phù hợp.
Có thể hiểu quy trình in ấn gồm các công đoạn và một tác phẩm in màu là sự lặp lại quy trình qua các màu để tạo ra kết quả. Quy trình in ấn như vậy mà tùy theo số màu của tranh, sẽ phức tạp hơn nhiều lần. Như trong lối in khắc gỗ phá bản, in màu nào trước, màu nào sau đòi hỏi tác giả phải tính toán và lặp lại việc in ấn một cách cẩn thận. Không chỉ đối với in khắc gỗ, cách in chồng màu từ nhạt tới đậm còn có thể thực hiện với các loại hình khác. Với tranh in màu, việc triển khai – khẳng định – xác lập tạo hình không chỉ xảy ra theo công đoạn chế bản – cung cấp mực – in, mà lặp lại theo cả số màu. Người thực hiện như vậy có nhiều hơn một lượt tư duy, lựa chọn và chấp nhận kết quả của công việc in ấn.

Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2017

Một số tính chất tác động đến ấn phẩm

Ngày trước, chúng ta có Đồ họa nét mảng đậm nhạt. Ngày nay, chúng ta có cả Tự do. Tự do trong suy tưởng, tự do trong cảm xúc và tự do trong thực nghiệm.
Người thợ quen tay nghề. Người thực nghiệm luôn suy nghĩ.
----------------------------------------
Nói tới in ấn, là nói tới quy trình, bắt đầu từ ý đồ tạo hình của tác giả tới ấn phẩm cuối cùng, được ký tên, đánh số để xuất bản. Quy trình như vậy, đòi hỏi những tiêu chuẩn về kỹ thuật. Với số loại hình tranh in phong phú, đa dạng, nhưng bản chất thực nghiệm theo quy trình của nghệ thuật tranh in là không đổi.
Tính chất thực nghiệm là tính chất, yêu cầu quan trọng nhất trong tất cả các thực hành nghệ thuật. Tính thực nghiệm chính là kết quả của sự tư duy, lao động, rèn luyện và là nền tảng cho sự chân thực của tác phẩm. Tính thực nghiệm tồn tại trong mỗi ấn phẩm, chính là quá trình in ấn, bởi để có được ấn phẩm, người họa sỹ đã phải thực hiện qua từng công đoạn mà không thể làm tắt, bỏ bớt.
Phác thảo của tác phẩm nếu không trải qua thực nghiệm sáng tạo, thông qua in ấn thì chỉ là một triển khai ý tưởng, một thiết kế. Tính thực nghiệm càng khẳng định hơn mối liên hệ không thể tách rời giữa kĩ thuật và hình thức – nội dung tác phẩm. Trong lịch sử ngành nghề có thể thấy, từ bản thảo, phải qua tay rất nhiều người thợ để đưa đến bản in cuối cùng: sao chép, chế bản, chuẩn bị mực, giấy và in. Ví dụ tranh dân gian truyền thống của nước ta, là kết quả từ sự khéo léo thực hành giữa các khâu: sáng tác, chế bản và in của tập hợp các nghệ nhân. Ngày nay trong quan niệm hiện đại, người nghệ sĩ khai thác tối đa quy trình theo một cách chi tiết đến từng thao tác để có thể diễn tả được tác phẩm trong chất liệu và sự tìm tòi cá nhân. Đó cũng là lúc tính thực nghiệm càng được đề cao hơn hết, cốt làm sao tìm được sự dung hòa giữa truyền thống và hiện đại.
Mà thực nghiệm chính là thực hành các giai đoạn in ấn. Qua thực nghiệm, quá trình in ấn thể hiện tính nhiều giai đoạn, tạo nên sự đặc biệt của tranh in so với hội họa, điêu khắc hay các loại hình khác. Do đó tính nhiều giai đoạn cũng là một tính chất quan trọng của quá trình in ấn, thể hiện một cách tự nhiên qua các công đoạn, trong bản thân cách thức sáng tác, lập phác thảo, dự tính thao tác chế bản, số lớp in: tách các màu, các loại nét và mảng… Với mối liên hệ đó, các giai đoạn trong quy trình tỏ rõ vai trò làm hoàn thiện tác phẩm, chứng minh kỹ thuật và nội dung – hình thức tác phẩm là những vấn đề không thể tách rời.
Có thể thấy rõ qua quy trình in tranh dân gian của nước ta, khi nó đòi hỏi giữa nghệ nhân khắc ván và nghệ sĩ vẽ mẫu sự ăn ý. Việc chuyển bản vẽ mẫu lên gỗ khắc là nguyên nhân chính, vì nó cần sự chu đáo, đảm bảo được cả mặt kĩ thuật và nghệ thuật. Kích thước của ván khắc phải có kích thước được tính toán để việc in tranh tiếp sau đó thuận tiện nhất. Từng bước như vậy, tạo ra tính nhiều giai đoạn của công việc và tính thực nghiệm trong từng khâu sáng tạo.
Tính nhiều giai đoạn giống nhau trong tất cả kĩ thuật chất liệu khác nhau: gồm nhiều bước tiến hành không thể thay thế. Sự khác nhau về chi tiết hay thứ tự phụ thuộc vào đặc tính của mỗi loại hình. Hầu hết các kĩ thuật chất liệu đều phải trải qua việc thực hiện những công việc như sau:
Bước chế bản thực hiện tạo bản khắc/trổ trên vật liệu tạo bản;
Bước lăn/bôi mực thực hiện với mực hay màu in phù hợp để hình ảnh sẵn sàng cho việc in;
Bước in thực hiện với lực ép lớn và giấy in phù hợp, chuyển hình ảnh từ bản khắc/trổ lên bề mặt giấy.
Bất kì một bước nào nếu thiếu đi, sẽ khiến quy trình in không hoàn tất, không tạo ra được ấn phẩm. Điều này cho thấy sự quan trọng của tính chất nhiều giai đoạn trong quy trình in ấn. Như một hậu quả kéo theo, tính chất thực nghiệm khi đó cũng không thể được đảm bảo, ảnh hưởng trực tiếp đến tác phẩm, không mang lại được đặc trưng loại hình.
Tính nhiều giai đoạn, phụ thuộc vào thực nghiệm, được phản ánh qua sự khác nhau ở một mức độ tương đối giữa các bản in trong một tập tranh. Điều đó có nghĩa là, với cùng một cách chế bản, thì cách dùng mực và in khác nhau tạo ra kết quả khác nhau: màu sắc khác nhau, chất màu khác nhau… Mỗi bước trong quá trình in ấn luôn có thể xảy ra sai sót, khiến phác thảo ban đầu trở nên hoàn toàn khác so với kết quả cuối cùng. Tác phẩm chịu sự biến đổi qua các bước khác nhau đó, trở nên khá phức tạp cho việc truy nguyên kỹ thuật chỉ bằng cái nhìn. Hầu hết các sách hướng dẫn thực hành đều chú trọng đến yêu cầu kỹ thuật để đảm bảo chất lượng tác phẩm. Nhưng do tính thực nghiệm thể hiện bất kì lúc nào trong quá trình sáng tác, mỗi bản in trong cùng một tập tranh trên nguyên tắc đều là bản gốc, nên tác giả có thể thay đổi trong phạm vi cho phép để diễn đạt ý tưởng.

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017

lại là khắc gỗ

Vừa qua, một họa sỹ Thái Lan, tên gọi Pra - quen Pi - ang - chôm - pư, đã đạt được giải nhất toàn Asean về Printmaking. Cuộc thi được tổ chức tại Việt Nam. Điều đáng nói là, họa sỹ này trước đó đã đạt được nhiều giải quan trọng trong các triển lãm từ vùng Ural xa xôi, đến các xứ Đông Á như Thẩm Quyến, Đài Loan và phần thưởng từ Nữ hoàng Na - uy.

Với một seri tranh liên tục được sáng tác bằng kỹ thuật in khắc gỗ trong nhiều năm nay, mang tên Sâu thẳm trong tâm hồn, họa sỹ người Thái này đã làm được một điều rất xứng đáng để nhận được tất cả các phần thưởng và danh dự như trên. Hơn hết, có lẽ cần có một vị trí đặc biệt cho họa sỹ này trong lịch sử Printmaking của toàn nhân loại bởi điều mà họa sỹ này làm được là chưa từng có, và vô cùng ý nghĩa trong sự phát triển của nghệ thuật biểu hình trong ngôn ngữ in ấn.



Tranh in khắc gỗ Việt Nam đã đến thời cáo chung.

Đầu tiên, nói về kỹ thuật, họa sỹ làm cho tất cả những người xem không thể tin nổi rằng tranh đó được in bằng kỹ thuật khắc gỗ. Mà thật sự đó không phải là phương pháp khắc đục nhàm chán như ở ta vẫn làm xưa nay. Cách là của người này rất độc đáo: vừa khắc vừa cạo. Nói thêm về kỹ thuật, ở ta trước giờ rất lộn xộn. Gắn mãi với những loại hình thủ công mỹ nghệ, lý luận của ta chưa bao giờ phân biệt được các thủ pháp, phương pháp thao tác trong việc in khắc gỗ mỹ thuật (tất cả những kiến thức trước giờ đa phần là thủ công mỹ nghệ và lệ thuộc Trung Quốc). Về tạo dựng hình ảnh, sơ sơ thì theo tiếng Anh có wood engraving, woodblock - woodcut. In cho thành tranh màu, thuật ngữ tiếng Anh phân biệt cơ bản như sau: multi woodblock/ multiblock woodcut/ multi color woodcut, reduction woodcut. Để trình bày tường tận tất cả những cách dùng thuật ngữ gắn với các cách làm cụ thể, e rằng phải tốn ít nhất cả một chương trong sách, hoặc là cả nội dung của một cuốn sách thì mới làm nổi. Nói như vậy để thấy, chúng ta ôm ấp mãi phường thủ công, để rồi ngay cả chính chúng ta cũng không cách tân cái phường thủ công ấy lên được. Cho đến giờ, các nhà lý luận vẫn còn vồn vã với mộc vị và dao vị, thì đến bao giờ chúng ta mới học được cách vừa khắc vừa cạo như người Thái, chứ chưa nói tới phát triển một kỹ thuật riêng của chúng ta.

Thứ hai, về ngôn ngữ, họa sĩ trên đã tạo ra những tác phẩm với ngôn ngữ độc đáo, tinh tế mà cô đọng trong miêu tả không gian, vừa đồ họa đó mà vừa đậm tính biểu hình tả thực. Không hề có nét, có mảng, sao gọi là đồ họa? Đó là vì sự cô đọng về màu, về đậm nhạt và quan trọng hơn hết là cô đọng về sự diễn đạt không gian. Đi sâu vào diễn đạt không gian, mô tả những sự vật trong không gian chung, tạo ra vẻ hòa hợp của chúng, khắc họa nên hình ảnh chân thực về không gian đó, là một trong những mục đích cơ bản của nghệ thuật biểu hình. Đa phần, tranh in khắc gỗ cho ra một kiểu cô đọng không gian thái quá, đập bẹt không gian và đòi hỏi một sự cảm nhận mang cả lý trí trong đó. Người Thái ấy không buộc ta phải suy nghĩ. Ánh sáng trong tranh ấy vẫn cô đọng, cái gì thừa thãi bỏ đi, nhưng cảm nhận thị giác về không gian là trực tiếp, đầy cảm quan trừu tượng.

Những nỗ lực mô tả không gian đầu tiên trong tranh in khắc gỗ màu, có lẽ là lối chiaroscuro woodblock của nghệ thuật Phục hưng. Những ván gỗ với các phần mảng, nét mang sắc độ từ đậm đến nhạt riêng biệt của một hình ảnh được in lần lược để mô tả khối, bề mặt và chi tiết của sự vật. Những tranh in khắc gỗ ở thời Phục hưng mang tính nghiên cứu cao về biểu diễn cô đọng một không gian cũng như cấu trúc sự vật.


Một trong những nỗ lực tiếp theo có lẽ là phương pháp mà ta vẫn gọi là in khắc gỗ phá bản, mà đặc trưng kỹ thuật vẫn thường thấy trong việc thao tác của các họa sỹ là in rất nhiều màu và khắc tỉ mỉ rất cực. Tiếp theo theo thiển ý của người viết chính là kỹ thuật in khắc phá bản, đi với ngôn ngữ của nó, không phải từ trên trời rơi xuống, không phải là một sản phẩm dân gian, mà là sản phẩm của sự phát triển ngôn ngữ biểu hình trong tranh in khắc gỗ. Bởi vậy, biểu hình như thế nào, xây dựng không gian trong tranh chân thực đến độ nào là một trong những mục đích cơ bản của nghệ thuật biểu hình chân chính. Mà in khắc gỗ phá bản, cho phép người làm cởi bỏ nét viền, mảng phẳng, phá bỏ tư tưởng đã ăn dầy ăn sâu về tính đồ họa chỉ có nét với mảng cùng một không gian bẹt bẹt, chính là một lợi thế khá mạnh.



Vượt lên hơn thế nữa, một tranh gọi là in khắc gỗ nhưng không hề có nét khắc, không hề có những lớp màu phân biệt, mà ở đó chỉ có những chuyển biến màu, chuyển biến ánh sáng, là một sự phát triển sau cùng cho đến ngày hôm nay. Tương lai kia, ngôn ngữ ấy có còn đạt được những thành quả mới hay dừng chân nghỉ mệt, là điều ai cũng phải chờ đợi.

Trở lại với tranh của họa sỹ trên, chủ đề về nội thất là một chủ đề cũ, thậm chí là rất cũ. Theo dõi toàn bộ seri của họa sỹ này, có thể thấy anh không cố gắng dày vò nội dung trong tranh, không siêu thực, không fantasy, không nhiều tầng lớp hình ảnh... Điều này có thể làm cho một số người ưa thích những nội dung phức tạp bỡ ngỡ, không hiểu tại sao như vậy mà cũng đoạt giải. Trong seri này, một số bức có motif bố cục cơ bản, một số lại không thật sự độc đáo vì nhang nháng một số chi tiết ở tranh của các bậc thầy. Nhưng cái không gian ấy trong tranh in khắc gỗ, quả thực đã làm tất cả mọi khán giả khâm phục. 

Đi vào miêu tả, chứ không phải đơn giản không gian, là một con đường đúng đắn và chông gai, nhất là ở tranh in khắc gỗ. Con đường ấy chông gai như chính nghệ thuật biểu hình cao quý. Ở ta, có một lực cản gì đó khá mơ hồ, khiến một số họa sỹ làm tranh in khắc gỗ đã bước một chân vào con đường ấy lại bước chân ra(!) Hoặc có lẽ là lỡ bước mà vào thôi, không được phép đâu nhé, phải dân tộc và hiện đại!