CƠ THỂ CON NGƯỜI LÀ MỘT VẬT SỐNG ĐỘNG, ĐỐI TƯỢNG CỦA MĨ THUẬT. HÌNH HỌA MÀU NGHIÊN CỨU VÀ SÁNG TÁC CÓ MỤC TIÊU TÁI HIỆN SỰ SỐNG CỦA CƠ THỂ NGƯỜI BẰNG HÌNH KHỐI, MÀU SẮC THEO NHIỀU CÁCH THỨC KHÁC NHAU.
Mỗi họa sĩ có cách dùng màu riêng trong việc thể hiện cơ thể người. Từ cách dùng màu tương đồng tinh tế đến dùng màu tương phản đầy ấn tượng, tất cả đều có những giá trị riêng để khẳng định bản lĩnh, thẩm mĩ của mỗi nghệ sĩ, và sự phong phú trong ngôn ngữ thể hiện.
Có rất nhiều họa sĩ đã vẽ cơ thể trần của con người bằng hòa sắc tương đồng. Trên nguyên lí cơ bản, các màu tương đồng bên tối cơ thể nằm trong một hệ thống với các màu tương đồng bên sáng, giá trị nóng và lạnh của màu được chuyển tải trên một màu gốc, các họa sĩ đã sử dụng tối đa các màu có thể.
Henri Lebasque có những màu tương đồng rất ngọt ngào trong hình họa, thể hiện sự sống của cơ thể. Phần đầu và các chi có màu sắc ấm hơn hẳn, có thể phân biệt với phần lưng, ngực và bụng. Các màu trong phần nền cũng tạo nên nhiều giá trị khác nhau, để cho thấy được độ nóng lạnh của cơ thể ở vào mức trung gian. Đây có thể được xem là cách vẽ người thể hiện được nhiều màu hơn cả.
.jpg) |
Ví dụ 1.
Hệ thống màu tối và màu sáng trên cơ thể được chuyển tải rất nhẹ nhàng. Các màu tối lạnh trong tương quan nằm gần kề với màu lạnh ở nền. Trong khi các màu tối nóng, hay sáng nóng dường như có được từ sự phản xạ mảng màu cam vàng ở góc dưới. |
.jpeg) |
Ví dụ 2.
Hệ thống màu có xu hướng chuyển sang xanh lá trên cơ thể phản ánh người mẫu nằm trong một tương quan lạnh. Những màu nóng trên cơ thể khi đó đóng vai trò quan trọng để thể hiện sức sống. |
.jpg) |
Ví dụ 3.
Phần đầu và các chi được thể hiện bằng màu nóng hơn phần ngực và lưng trong tương quan. Các màu nóng đó khi nhìn kĩ có xu hướng chuyển tải màu đỏ từ nền nhiều hơn, mặc dù đã được hòa trộn với màu lạnh trong tương quan. |
.jpeg) |
Ví dụ 4.
Không khó để nhận ra sự hài hòa ngọt ngào trong hệ thống màu tối của cơ thể với phần nền. Bờ vai phía xa nằm trong tương quan nhỏ, ngả về xanh, phản ánh màu nền phía trên, xa hơn và lạnh hai chân ở dưới ở gần và nóng hơn.. |
Cũng có họa sĩ cho người xem thấy ít màu hơn trên cơ thể con người. Ví dụ như vài bức của Robert Henri. Mặc dù đó là hòa sắc tương đồng, nhưng cơ thể này cho thấy các giá trị sáng tối nhiều hơn là nóng lạnh, cảm giác của việc màu trắng được sử dụng nhiều. Lí do là vì các màu tương đồng mà họa sĩ đã phối thật sự rất gần giống nhau, tạo ra được sự nhẹ nhàng. Sự ấm áp của da thịt trong trường hợp này có vẻ tinh tế hơn. Điều đó là phù hợp với một không gian được xây dựng đơn giản hơn.
 |
Ví dụ 5.
Tương quan màu nhẹ nhàng và ngọt ngào này, cho người xem nhận ra rõ hơn về vai trò của màu tươi và màu tái trong việc thể hiện một cơ thể sống. Ta có thể gọi tên được màu vàng trên cơ thể, màu xanh dương của nền, màu xanh nhẹ hay màu trắng của tấm vải. Nhưng thực tế đó là một màu vàng ít tươi hơn màu bậc 1, màu xanh ngả về xám rất nhiều và mảnh vải là sự phản ánh của nhiều ánh sáng từ không gian quanh đó. Một chênh lệch rõ rệt trong độ tươi tái của màu có thể thể hiện nổi bật một cơ thể đang sống. |
 |
Ví dụ 6.
Với các màu nóng phối cùng nhau, giá trị nóng lạnh của màu thật sự cần tính toán rất kĩ. Họa sĩ đã thật sự dùng độ nóng nhất của màu đỏ để thể hiện chân dung. Màu vàng cũng là màu nóng, nhưng yếu thế hơn hẳn. |
 |
Ví dụ 7.
Thêm một ví dụ nữa, không phải thuộc về Robert Henri. Sắc nóng và lạnh trên cơ thể của mẫu khỏa thân cũng như mẫu có trang phục chênh lệch rất nhẹ. Dễ thấy nhất là da trên xương ức và chân dung nóng và đậm hơn phần ngực. Một điểm thú vị nữa là tấm vải lót ngả màu về tím, dù nhẹ, nhưng vẫn tạo cảm giác không gian gần hơn so với sàn nhà màu xám ở phía xa. |
 |
Ví dụ 8.
Một ví dụ với chất liệu màu nước, loại chất liệu đơn giản hơn trong sử dụng nhưng lại đạt được hiệu quả không hề kém, cho thấy cách thể hiện tương quan của một cơ thể sống. Với giấy không phải là màu trắng sáng hoàn toàn, nó cho phép họa sĩ xây dựng một hòa sắc tương đồng dễ dàng hơn. Điều đó cũng xảy ra với chất liệu chì màu khi đan bút thành các lớp mỏng chồng lên nhau. Không có gì quá tím, trừ phần dưới của mái tóc. Trong ví dụ này, hệ thống màu nóng trên cơ thể không có nhiều thay đổi về gốc màu. Màu ở các vị trí trên cơ thể tương đồng rất nhẹ. |
 |
Ví dụ 9.
Với chì màu, khi sử dụng bằng cách đan từng lớn thưa, hiệu quả đạt được là một hòa sắc dịu dàng trên nền giấy. Cũng vì lí do đó, việc lựa chọn màu giấy, hay quét một lớp nền có màu trở nên rất quan trọng. Các chất liệu đem lại hiệu quả theo cách này nhắc nhở người vẽ một nguyên tắc quan trọng: nóng và lạnh không phải là giá trị cố định của màu mà chúng phụ thuộc vào vị trí trong tương quan. Trong ví dụ này, gò má của người mẫu có màu nóng hơn chung quanh là vì họa sĩ đã dùng thêm màu đỏ hoặc cam, nơi khác thì không. |
Màu nền và cách sắp đặt màu nền cũng là một phần rất quan trọng. Hình mẫu người trong tranh có thể là một hòa sắc tương đồng, nhưng trong tổng thể tranh thì lại là một phần của hòa sắc bổ sung, hoặc hòa sắc tương phản. Các ví dụ 1 và 2 cho thấy cơ thể phản ánh và mang màu nhấn trong một hòa sắc bổ sung, phát triển thành bổ sung kép.
 |
Ví dụ 10.
Bằng ngôn ngữ đồ họa, các màu sắc tương phản đã được sử dụng để tạo ra không khí, âm thanh và nhịp điệu đầy sống động. Màu trên nhân vật chính gồm một số màu tương đồng, nóng hơn hẳn trong tương quan, làm nên điểm chính trong tranh có các màu tím và xanh dương. |
 |
Ví dụ 11.
Màu của phần da thịt trên chân dung, mái tóc và đôi tay tạo nên một sự tương phản nhẹ của màu trong một hòa sắc bổ sung. Mức độ tương phản này phù hợp để tranh không mất đi màu sắc chủ đạo. Màu cơ thể là một hệ thống tương đồng, cũng như màu nền và trang phục là hệ thống tương đồng thứ hai. Màu chuyển giữa hai hệ thống có thể nhận ra ở phần tối của khối tóc, phần vải trên vai. |
 |
Ví dụ 12.
Với đặc điểm giới hạn về số lượng màu của nghệ thuật đồ họa, một hòa sắc tương đồng cô đọng và tinh tế đã được sử dụng để khắc họa chân dung nhân vật. Màu sáng của da trên gương mặt và bàn tay gần như trùng với màu nền. Vì thế cũng giống như màu nước hay chì màu, màu nền là một yếu tố quan trọng: tạo ra hòa sắc; tượng trưng cho không gian; làm thành màu và độ trung gian trong một số trường hợp, tạo ra màu và độ sáng nhất trong một số trường hợp khác. |
 |
Ví dụ 13.
Với một màu xám trung gian ngả ít về nóng hoặc lạnh, chủ thể sẽ nổi bật hơn rất nhiều. Khi nói tới 'màu xám', người ta có thể hình dung một màu trung tính về nóng lạnh và trung gian về độ. Phát triển khái niệm đó lên, đó thật sự chỉ là một màu trung tính, màu đó có thể sáng hơn hoặc tối hơn. Điều đó thật sự rất quan trọng, trong ứng dụng thực hành khái niệm 'xám màu', khi màu xám nghiêng về nóng hoặc lạnh, ửng các màu khác nhau của tương quan tranh. |
 |
Ví dụ 14.
Một ví dụ cho hòa sắc tương đồng hoàn toàn của Ivan Kramskoy với màu chủ đạo là xám vàng. Các mức độ tươi hay tái của màu, nóng và lạnh được chú ý sắp xếp cẩn trọng. Một ít gốc màu xanh dương được phối trong màu chủ vàng được xây dựng thông qua màu xám. |
Vẽ cơ thể người hay vẽ hình họa bằng các màu có gốc tương phản cũng tạo nhiều cơ hội cho sự thể hiện của họa sĩ. Đó có thể là một hình họa mang tính nghiên cứu hay một hình họa sáng tác mang nhiều cảm xúc riêng. Từ nguyên tắc về màu dùng trên cơ thể người khi phối các màu tương đồng, có thể hiểu việc sử dụng màu tương phản là sự đẩy xa về gốc màu đối với tương quan sáng tối và nóng lạnh. Mỗi hệ thống màu sáng hoặc tối tuân thủ một cách tương đối theo hệ thống nóng hoặc lạnh.
 |
Ví dụ 15.
Hệ thống sáng và hệ thống tối trên cơ thể thuộc về 2 hệ thống nóng là lạnh khác nhau. Trong hệ thống nóng, các giá trị nóng cũng thay đổi tùy vài vị trí: Vai, đùi và lòng bàn chân nóng hơn phần lưng, nghiêng về đỏ. Rõ ràng gốc màu nóng và lạnh đã xa nhau hơn so với cách dùng màu tương đồng. Hệ thống lạnh có màu tương đồng với không gian, càng làm tăng mức độ tương phản với hệ thống màu nóng. |
 |
Ví dụ 16.
Henri Matisse đã dùng các màu nổi bật để vẽ về cơ thể con người. Các màu trong tranh thật sự 'dã thú'. Người xem có thể nhận ra các cặp màu tương phản rõ rệt. Tuy nhiên, trên chân dung, họa sĩ đã khôn khéo xây dựng hệ thống sáng tối và nóng lạnh từ hai gốc màu cam là lục với độ tương đồng nhẹ và phần nào tương đồng. Điều đó phản ánh tính nghiên cứu rất riêng của phái Dã thú. |
+with+%C3%89mile+Bernard+portrait+in+the+background,+for+Vincent.+oil+on+canvas.jpg) |
Ví dụ 17.
Chân dung của Paul Gauguin được vẽ bởi hai hệ thống sáng - tối, nóng - lạnh dựa vào 2 gốc màu cam và lam. Tác dụng thị giác mang lại là rất lớn khi phản ánh tâm hồn của nhân vật. Độ lạnh của màu thuộc phần tối và phân bổ của màu lạnh trong tranh rất phù hợp để xoa dịu cái nóng từ nền, mũi, trán, gò má và miệng, tạo ra sự ngọt ngào của hòa sắc. |
 |
Ví dụ 18.
So với màu nền và hai chân mang trang phục, mức độ có màu của hệ thống tối trên da thịt không bằng, tức màu của hệ thống tối xám hơn dù nó sáng hơn so với màu xanh lam ở ngoài. Tuy nhiên mức độ đó thật sự tối để đẩy hệ thống sáng và nóng lên trở nên nổi bật. Đồng thời, mức độ nóng lạnh và sáng tối đó đã thể hiện được ánh sáng mạnh chiếu lên cơ thể và vùng phản quang rộng và dịu dàng. |
 |
Ví dụ 19.
Những kí họa nhanh bằng màu nước thường được ghi bằng màu nguyên. Màu chuyển của kí họa đễ dàng có được khi pha nhanh hay phủ chồng các lớp màu. Các phần nóng trên cơ thể người mẫu được quy ước bằng màu cam trong khi phần lạnh chuyển từ xanh cobalt tới tím. Đó là cách nguyên cứu hệ thống tối của cơ thể với các biến đổi về màu, khác với việc xây dựng theo cách thường: hệ thống sáng dùng gốc màu nóng còn tối có gốc màu lạnh. |
 |
Ví dụ 20.
Ví dụ này đưa ra một trường hợp khác. Sự tương phản nóng lạnh trên cơ thể không nằm hệ thống của ánh sáng. Với một màu xanh lá chủ đạo phủ trùm hoàn toàn, từ nền đến da thịt, thì những điểm cần thiết để diễn tả sự sống của cơ thể đã được đạt vào các màu có gốc cam đỏ rõ rệt. Điểm nhấn của bức tranh được nhận diện ngay lập tức. |
 |
Ví dụ 21.
Ánh sáng như đang cháy trên da thịt nhờ các màu trong hệ thống sáng chạy khắp không gian có một độ tương phản về nóng lạnh phù hợp với màu lạnh trong tối. Nóng có nhiều mức độ, lạnh cũng có nhiều mức độ. Nhưng nhìn chung trên cơ thể, nóng và lạnh là phân biệt. Đó cũng là đặc điểm chung của cách dùng màu nghiêng về tương phản. |
 |
Ví dụ 22.
Ví dụ này cho thấy một sự tương phản về nóng lạnh, chứ không hẳn về màu. Sự tương phản đó là cần thiết để không phải xây dựng thêm nhiều giá trị nóng lạnh trong từng hệ thống. Điều này khác hẳn với cách thể hiện thông thường, cho thấy một cảm quan đặc biệt về sự sống của cơ thể liên quan trực tiếp đến ánh sáng. Hệ thống tối không chỉ lạnh hơn mà còn tái hơn, xám hơn về màu. Màu thật của sự vật khi đó không phải cấu tạo bởi vùng sáng và tối trên sự vật mà là màu nào hiển hiện trong vùng phơi trực tiếp ra ánh sáng. |
 |
Ví dụ 23.
Khi áp dụng một trật tự gần như ngược lại, cơ thể như được chiếu sáng bởi một nguồn sáng lạnh. Ánh sáng không có tác dụng làm hiển hiện màu của sự vật trong trường hợp này, đơn thuần chỉ cho thấy nguồn sáng. Ánh sáng không đơn thuần không màu, mà mang một sắc lạnh để che phủ toàn bộ không gian. Sức sống của con người phụ thuộc vào hệ thống màu nóng được sử dụng, ở đây nằm trong các mảng tối. |
 |
Ví dụ 24.
Hệ thống các mảng tối của cơ thể thể hiện sự cộng hưởng màu với nền, tạo ra vẻ ấm áp của da thịt. Tất cả như tương phản với sắc lạnh của phần da sáng, hơi nghiêng về xanh. Hiệu quả trong cách đặt màu này là khác hẳn so với các ví dụ trên và khác với hòa sắc tương đồng. |
 |
Ví dụ 25.
Bên tối của chân dung có màu xanh, tương đồng với trang phục và mảng tối đó tái hơn so với màu bên sáng, tương đồng với mảng màu ngả về tím trên vai áo - thể hiện cho phần tối của trang phục. Các màu được sắp xếp vào hệ thống có vai trò quan trọng trong việc thể hiện sự tương tác qua lại của màu, diễn đạt ánh sáng chính hay sáng phản quang, tạo chiều sâu không gian. Nguyên lí này được áp dùng nói chung cho việc diễn đạt không gian, không chỉ con người và đó cũng là công cụ cơ bản giúp người vẽ kiểm soát không gian. |
Như vậy, để thể hiện cơ thể sống, các phương pháp phối màu đã được các họa sĩ khai thác tối đa. Việc nghiên cứu sáng tối đi kèm với màu sắc không phải là một công việc đơn giản, đòi hỏi mắt nhìn và sự cảm nhận. Không thể phủ nhận sự tồn tại của một vài nguyên tắc cơ bản, nhưng cũng không thể chối bỏ các xử lí là vô cùng phong phú, không theo một quy luật nào. Một tác phẩm chỉ là một cách diễn giả và sử dụng các nguyên tắc chứ không minh họa trọn vẹn cho luật lệ nào. Mỗi một cách thức cho ra một hiệu quả nhưng cuối cùng cũng nhằm mục đích thể hiện một con người sống động, có hơi thở và tình cảm.