Nội dung và hình thức của tác
phẩm là hai khía cạnh không thể tách rời nhau trong một tác phẩm.
Mối quan hệ của chúng mang tính biện chứng, bổ sung và hoàn chỉnh
cho nhau. Đối với một tác phẩm in ấn, cách nhìn nhận, diễn đạt đối
tượng, không gian bao quanh đối tượng đó mang tính rõ ràng, cô đọng là
khác biệt so cách nhìn của hội họa hay điêu khắc... Và chắc hẳn ngoài nội dung về đối
tượng, đề tài, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, còn có những tình
cảm, cảm xúc của tác giả phản ánh qua biểu cảm riêng trong tác
phẩm, thứ biểu cảm được xây dựng bởi thủ pháp riêng về hình thức
của loại hình. Đi liền với nội dung là một hình thức liên quan phù
hợp – hình thức được xây dựng bởi phương pháp in ấn: Trong một thời gian dài phong cách hiện
thực được đề cao và mọi họa sỹ chấp nhận nó một cách tự nhiên […]
Từ hiện thực đến ký họa, rồi đến tranh in khắc gỗ đã là quá trình
chắt lọc rồi và đến đó không ai còn đòi hỏi bức tranh có tương tự
với tự nhiên hay không. Tinh chất khái quát tự nhiên và cách nhìn
nhận hiện thực nhiều hơn là sao chép vốn có ở tranh khắc gỗ (thủ
pháp riêng của loại hình) cho
thấy rõ điều này. (Hoàng Minh Phúc, sđd, trang 242 – 243)
Trở lại với các biểu hiện thường
thấy của tranh in nghệ thuật, gắn liền với phong cách hiện thực,
ngoài vấn đề nội dung phản ánh các mặt của đời sống thực tế, hình
thức mà tác phẩm đạt tới thường gắn với các tiêu chí đặc trưng,
điển hình và mang các giá trị chân – thiện – mỹ. Đối xử trước một
nền nghệ thuật dân gian cổ truyền mang nặng tính Đồ họa, tư duy của
người làm tranh in nước ta tỏ rõ sự ưu ái đối với việc khái quát
hóa đối tượng: qua nét và qua màu, xây dựng hình ảnh mang tính điển
hình, đặc trưng cao bằng hệ thống tạo hình với nét đen, mang nặng
tính Đồ họa với sự bổ sung màu để tạo hòa sắc. Trong hoàn cảnh
hiện tại, nhiều cách tân ở lối in ấn, ví dụ như kỹ thuật in khắc
gỗ phá bản cũng đã và đang được thực hành tại khoa Đồ họa, không
câu nệ đến việc viền hình, đi nét đen, nhưng lại tỏ ra hết sức hữu
hiệu khi diễn đạt không gian hiện thực, nhấn mạnh được trước – sau, chính
– phụ làm tăng hiệu quả diễn đạt nội dung điển hình, đặc trưng trong
tranh.
Sự giống nhau trong những cách làm
đó xảy ra ở quy trình in ấn. Phong cách hiện thực trong đặc trưng của
nó hướng tới nội dung cô đọng, điển hình và mang tính biểu hình cao,
đã khiến những lớp màu, mảng và nét nằm trong một quan hệ gắn bó,
bổ sung cho nhau trong mục đích tiên quyết là xây dựng một không gian
hiện thực duy nhất. Chỉ loại trừ phương pháp in offset và in lụa mang
nặng yếu tố công nghiệp, hầu như tất cả các loại hình tranh in đều
vận hành một quy trình như nhau đối với phương pháp sáng tác Hiện
thực. Một yếu tố quan trọng khác không thể bỏ qua, là biểu cảm của
loại hình, chất cảm từ vật
liệu mà phong cách hiện thực đem lại. Gắn với việc củng cố ý đồ
thể hiện không gian hiện thực, tác phẩm hầu như chỉ có một biểu cảm
đơn nhất: sự thô sơ ấm áp của loại hình in khắc gỗ, mềm mại tinh vi
trong loại hình in kim loại hay cảm giác đặc trưng mà tranh in đá
thường có… Biểu cảm đơn nhất đó, phải chăng là yếu tố quan trọng để
thúc đẩy cho sự diễn đạt một không gian đồng nhất, ngoài những yếu
tố đậm – nhạt, trước – sau?
Vậy còn những phương pháp sáng tác không phải hiện thực? Bởi nghệ thuật là một lĩnh vực gắn liền với quá trình tư tưởng - tư duy của con người, mà trong đó phản ánh cả thái độ, cảm xúc và tình cảm riêng tư, nên không thể có một trạng thái đơn nhất về phương pháp sáng tác, phong cách hay ngôn ngữ. Tranh in cũng vậy. Rõ ràng, kỹ thuật gắn bó với tạo hình của tác phẩm: nội dung cần có hình thức, hình thức là con đẻ của kỹ thuật. Nhưng sự gắn bó đó không đơn thuần chỉ trong một mối quan hệ mà hình thức củng cố cho nội dung. Trong những góc nhìn đa chiều, như thủ pháp đồng hiện, nghệ thuật Lập thể, Tượng trưng hay Siêu thực... hình thức của tranh in không hoạt động như sơn, như màu hay cọ. Mỗi một lớp màu có khả năng khắc họa một hình ảnh hoàn chỉnh, là kiến thức cơ bản như đã thấy trong thể loại in ấn đơn sắc. Sẽ là thực sự phức tạp, nếu mỗi lớp màu trong một tác phẩm in ấn màu không chỉ thể hiện một không gian, một đối tượng chứ không nói tới việc phải mất nhiều lượt in mới tạo ra một không gian như lối diễn tả hiện thực.
Nội dung và hình thức trong tạo
hình của tác phẩm có mối quan hệ mật thiết với kỹ thuật. Một mặt,
phương thức thể hiện của tác phẩm hiển nhiên phải phù hợp với thế
mạnh của từng loại hình. Mặt khác, quá trình sáng tác cũng là quá
trình tác giả sử dụng các vật liệu, chuyển tư duy, tình cảm, những
dự định trong phác thảo thành chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn. Do đó,
đây là quá trình cần đến sự hiểu biết và kinh nghiệm về sự tương
tác của các vật liệu đó. Trong tất cả các loại hình nghệ thuật nói
chung và tranh in nghệ thuật nói riêng, sự thành thạo về kỹ thuật hay
chính là hiểu được thế mạnh của mỗi loại hình có ảnh hưởng quyết
định to lớn đối với sự thành công của tác phẩm.
Thành thục trong kỹ thuật chất liệu là thành thục về cái mà loại hình đó có thể trình bày tốt nhất, cảm xúc mà loại hình đó có thể đẩy ra sự thể hiện toàn vẹn nhất. Thành thục trong sử dụng kỹ thuật chất liệu do đó không phải là một sự áng chừng về những yếu tố thị giác như đường nét, điểm chấm, mảng miếng... để gán lên đối tượng một cách thể hiện nặng tính công thức. Chỉ biết tới các yếu tố về thị giác mà quên đi biểu cảm riêng của từng loại hình - cái thực sự bày ra trên giấy là những lớp mực ánh màu sắc khác nhau - chỉ có một nghệ thuật Đồ họa chung chung mà không có một nghệ thuật in ấn cụ thể sinh động.
Trong lúc những họa sỹ đi trước lo lắng về sự toàn vẹn của chất liệu, bảo vệ truyền thống trong việc sử dụng kỹ thuật, vận dụng tính Đồ họa vào tạo hình, trong lúc những công trình lý thuyết có tầm vóc to hơn, được bảo trợ bởi trường quy vẫn vồn vã với mộc vị, dao vị trong tranh in khắc gỗ, thì người Thái đã có những cách tân trong kỹ thuật, phương pháp để đẩy sâu nội dung của sáng tác, dù không cần thoát ra khỏi phương pháp sáng tác hiện thực. Cũng là tranh in khắc gỗ, trong lúc một số họa sỹ đi trước xem dao khắc như cọ vẽ, nét khắc như vệt sơn, hoặc khắc trổ như phường thợ thì người Thái đã đẩy biểu cảm của tác phẩm lên tới mức đạt được sự uyển chuyển của màu sắc như hội họa mà vẫn cô đọng, thể hiện được nền tảng Đồ họa trong đó. Tranh in khắc gỗ Việt Nam, sắp đến hồi cáo chung, cũng vì người ta bỏ quên bản chất in ấn đáng phải có. Biểu cảm thật sự quan trọng tới đâu? Nó chính là một phần hai cơ sở lý luận cho việc hợp nhất các kỹ thuật chất liệu tranh in làm một. Mối quan hệ giữa nội dung - hình thức - kỹ thuật hiển hiện ở mức cao nhất của nó trong chiều sâu biểu hình - trừu tượng, tư duy - cảm xúc chứ không còn là lối thực hành quen tay.
------------------------------------------------------
Các bác, các cô chú anh chị và các bạn,
Tôi là tôi, ở đây duy nhất là tôi. Tôi có tên, danh xưng và bút hiệu. Trước khi muốn nói gì làm gì, nếu được thì cho tôi nhờ cậy một chuyện, nhắn với anh Khôi họ Ngô rằng anh không biết gì về sự khổ sở của ông ngoại anh, của gia đình anh, những người chung quanh gia đình anh thì đừng lên báo khoe khoang, kể lể. Nay anh đã ở cùng với con những kẻ làm khổ ông ngoại anh, gia đình anh, những người thân thiết quanh đây, anh chớ hạnh phúc. Cũng như nhiều người khác, họ gần như đấu tố, giam lỏng ông Nam Sơn, rồi khi cần họ lại lôi tên ông ra, để làm sáng cái tiền đồ của họ.
Nếu có ai biết anh ấy, thì làm ơn nhắn với anh ấy như vậy. Rồi muốn làm gì tôi thì cứ thử.