Quần xã là một tập hợp các loài có tương tác với nhau trong hệ sinh thái. Quần xã bị chi phối bởi các loài thực vật ưu thế khác nhau là các loại thảm thực vật (hoặc các loại hệ sinh thái), được xác định chủ yếu bởi khí hậu và thứ yếu bởi điều kiện đất đai (thổ nhưỡng). Lập bản đồ các biến thể vi khí hậu và các loại đất trong một không gian xanh đô thị là một bước quan trọng trong quy hoạch và thiết kế môi trường sống không đồng nhất hoặc sự đa dạng của các loại thảm thực vật trong khu vực đô thị. Sự thay đổi điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng, tình trạng ô nhiễm, hoạt động của con người diễn biến theo gradient đô thị - nông thôn. Ví dụ: hiệu ứng đảo nhiệt đô thị gia tăng khi đi sâu vào vùng lõi đô thị, tính thấm nước giảm dần từ nông thôn tới đô thị. Điều đó quy định sự thay đổi về phộ phong phú của loài trong quần xã. Loài bản địa giảm dần từ nông thôn đến vùng lõi đô thị, hoặc loài phi bản đại gia tăng trong một cấu trúc thảm thực vật không đổi (>3cm diameter at breast height, dbh).
Ví dụ như vấn đề mà các loài thực vật gặp phải trong không gian đô thị đã được Waynne C. Zipperer và Glenn R. Guntenspergen minh họa trong 2 đồ thị sau.
Các khu vực đô
thị là vô cùng phong phú trong các loại thảm thực vật hoặc ổ
sinh thái (Gilbert 1991, Sukopp và cộng sự 1995, Godde và
cộng sự 1995, Wheater 1999, Boada và Capdevila 2000). Các
loại thảm thực vật trong đô thị có thể chia một cách đơn giản thành 3 nhóm: (1)
phần còn lại của quần xã tự nhiên, bị chi phối bởi thực vật bản địa; (2) nhóm
cây trồng chịu ảnh hưởng bởi kĩ thuật làm vườn trong điều kiện đô thị; (3) quần
xã thực vật thích nghi với điều kiện đô thị, không chịu tác động của con người.
-
Cấu trúc chiều dọc.
Cấu
trúc quần xã theo chiều dọc thường đề cập đến phân
phối hoặc phân tầng của lớp thảm thực vật, chủ yếu
được xác định bằng ánh sáng cường độ. Một khu rừng với tán, cây
bụi, và thảo mộc lớp. Mỗi lớp có thể nhận
được khoảng 10% ánh sáng mặt trời nhận được từng lớp ở
trên nó. Sự phân bố thực vật theo tầng phụ thuộc vào tính ưa sáng hay ưa bóng
của các loài khác nhau. Năng lượng mặt trời giảm nhanh qua các tầng tán lá. Động
vật trong rừng có thực phẩm khác nhau và yêu
cầu bao gồm và tương đối khác nhau trong mỗi
lớp theo chiều dọc. Ngoài ra, gỗ chết
đứng thân và chi
nhánh là một môi trường sống quan trọng cho nhiều nhóm
động vật. Trong duy trì đa dạng sinh học động vật, ví dụ
như, trong một khu vực công viên bán tự nhiên, số
lượng của lớp thảm thực vật thường được xem là sơ cấp
và sự đa dạng của thực vật là thứ cấp. Sự mất mát tương đối của
các cấu trúc quần xã theo chiều dọc là một cách hữu
ích để đo đạc suy thoái môi trường sống.
-
Cấu trúc chiều ngang.
Cấu trúc quần xã
theo chiều ngang có thể được mô tả như thảm thực vật theo một gradient hay
trong các patch. Như vậy, cấu trúc quần xã sinh vật ở đô thị có thể được phân
tích theo gradient đô thị - nông thôn tổng quát (McDonell, 1997). Tuy nhiên,
các thành phần như đá, đất và điều kiện nguồn nước tồn tại loang lổ, không đồng
nhất với ranh giới thay đổi khá đột ngột. Điều kiện đó quy định các thảm thực
vật có trạng thái chắp vá với nhau với đường ranh giới phân biệt. Trạng thái
của các đường ranh giới giữa các thảm thực vật trong đô thị chịu ảnh hưởng bởi
của con người. Thông thường các hoạt động của con người nhấn mạnh độ sắc nét
của chúng.
-
Cấu trúc loài – Loài bản địa và loài phi bản địa
(native species & non-native species).
Các nhóm phân
loại có số lượng lớn trong hệ sinh thái đô thị bao gồm thực vật, động vật không
xương sống và chim. Theo Chi cục bảo vệ môi trường thành phố Hồ Chí Minh (2010),
đa dạng sinh học ở thành phố Hồ Chí Minh được thống kê gồm có:
Thực vật
bậc thấp - tảo : 555 loài
Thực vật thủy sinh và ven bờ : 448oài
Thực vật bậc cao có mạch mọc hoang : 572
loài
Động vật không xương sống : 654
loài
Lớp cá : 171 loài
Lớp lưỡng cư : 14 loài
Lớp bò sát : 60
loài
Lớp chim : 140 loài
Lớp thú : 41 loài
Loài phi bản địa là loài có nguồn gốc từ nơi
khác, di chuyển đến và cư trú trong các ổ sinh thái ở đô thị theo quá trình
động học metapopulation. Các loài phi bản địa có thể được coi là kẻ xâm chiếm.
Ví dụ cho loài phi bản địa xâm chiếm thành công nhất vào các ổ sinh thái đô thị
là côn trùng. Các loài phi bản địa còn có thể do con người mang đến trong quá
trình du nhập các sinh vật thuần hóa. Những loài phi bản địa cạnh tranh và làm
suy yếu các quần thể loài bản địa. Theo Reichard và White (2001), đa phần sự
giới thiệu loài mới không ảnh hưởng lên hệ sinh thái, như 5% trong số các loài
đó trở thành loài xâm chiếm, ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng của hệ sinh
thái.
Quy
hoạch, thiết kế, và quản lý không gian xanh không chỉ
quan tâm về độ phong phú của loài, mà còn đặc biệt quan tâm
đến thành phần loài (Zipperer và Foresman 1997). Đa dạng
hoá cây xanh đường phố làm tăng sự đa
dạng chim, với sự phong phú của gia cầm và thành phần loài phụ
thuộc vào loài cây được sử dụng. Thay thế cây bản địa
với cây phi bản địa có thể được dự kiến
sẽ giảm sự đa dạng chim.
-
Mối quan hệ giữa các loài.
Các loài trong
quần xã có mối quan hệ hỗ trợ và kìm hãm lẫn nhau trong quá trình sinh trưởng
và phát triển. Một mối quan hệ nổi bật trong hệ sinh thái đô thị là mối quan hệ
của sinh vật vector truyền bệnh với các loài khác. Vấn đề sức khỏe cộng đồng
phụ thuộc vào tốc độ phát triển và phát tán của các vật trung gian truyền bệnh.
Một số loài nổi bật trong lịch sử phát triển nhân loại là: chuột với bệnh dịch
hạnh, muỗi với bệnh sốt xuất huyết…
Mối liên hệ giữa
các loài tạo nên sự kiểm soát số lượng quần thể, kiểm soát sự phát triển của
mỗi loài từ nhiều hướng khác nhau.
-
Đa dạng loài kiểu
alpha & beta. Sự đa dạng về loài trong hệ sinh thái đô thị bao gồm sự đa
dạng cao trong ổ sinh thái đơn (alpha – diversity) và sự biến đổi giữa các quần
xã trong các patch (beta – diversity). Sự đa dạng về loài trong hệ sinh thái đô
thị là kết quả của sự phân mảnh môi trường đô thị, tạo ra sự đa dạng trong môi
trường sống đô thị và là kết quả của sự xâm lấn bởi các loài ngoại lai vào đô
thị. ( Jari Niemela¨, D. Johan Kotze và Vesa Yli-Pelkonen)