Thứ Năm, 19 tháng 6, 2014

Tôi cũng có nhiều kí ức tốt đẹp, như bất kì ai, lâu lâu chúng cũng chợt ùa về. Hạnh phúc lại dâng lên như một kỉ niệm. Hạnh phúc gắn liền với những thứ xa xôi.

Kí ức của tôi có một bãi biển nhỏ bé, không người lui tới. Cát rất trắng, biển rất xanh, nằm sát ngay chân đèo. Chỉ có muông thú, và trí tưởng tượng. Đứng ở đó ngẩng mặt lên, từng quả núi che lấp bầu trời, từng đám dây leo lại quấn quây chằng chịt. Cái lá to hơn cái mặt người. Qua đèo đó là vùng bằng. Bờ cát dài hơn, biển nông thoai thoải bên dưới những cây cầu đang xây. Từng trụ bê tông mọc lên từ đáy biển. Có cả nhiều vòi nước phun cao, trắng xóa. Núi vẫn xanh rì bên bờ đá thẫm đen. Từ bình minh đến trưa là lúc màu sắc đẹp nhất. Thời gian càng qua, màu sắc đã phai mờ trong trí nhớ, chỉ còn là ảo ảnh. Một thứ gì đẹp lắm.

Miền đồi núi thường làm người ta say đắm, với những đường cong, đường gãy, với sự hùng vĩ, một cách rất bản năng, như con người sẵn sàng chấp nhận bản chất fractal của chính mình trong vô thức. Ngay như biển cũng chung một mẫu số với loài người. Dù có ca ngợi bao nhiêu cũng không thể đủ. Tôi e rằng mình cũng chỉ là một kẻ đi lạc. Ở hoàn cảnh nào cũng như 'đã đánh mất mình'. Tôi ngày xưa và tôi ngày nay giằng co nhau trong một trí óc, một cơ thể. Hoặc, che giấu nhau, cầm giữ nhau đừng lộ diện.

Tôi cũng thường hay nói với nhiều người rằng, một chỗ khác theo cách tôi nhớ, rất đẹp. Người ta đi về và trả lời tôi rằng, có lẽ nơi ấy không còn như xưa. Người ta lịch sự không nói thẳng ra rằng tôi nói láo. Tôi không tin trí tưởng tượng của mình vượt quá giới hạn bình thường. Rõ ràng có nhiều cách nhìn ngắm thế giới. Không một ai chia sẻ chung với ai khác điều này trong cuộc sống. Kỉ niệm lại lùi xa khi bạn không thể bày tỏ với ai đó. Những ô thông gió nhìn ra vườn nhà. Trên bức tường đó, không tầm mắt người nào với tới được, giống như cách tôi sống với kỉ niệm của mình không một ai hiểu, đôi khi ngay cả tôi hiện giờ.

Tôi đã nhiều lần 'vượt núi', ý tôi chỉ đơn giản là khi khỏi thành phố này. Nhưng sau bao nhiêu lần ấy, cái nhìn của tôi đã bị đánh lừa. Có thể ngoài thành phố này, đâu đó ngoài kia, có một thiên đường thật sự. Theo thời gian, bỗng một ngày thiên đường ấy sụp đổ. Miền hạnh phúc trong kí ức thu hẹp dần. Tôi còn có thể đi đâu? Thời thơ ấu của tôi, không có gì đặc sắc ngoài việc tôi cứ tự hỏi mình đời sống này là thực ư. Liệu nếu nhắm mắt lại, tập trung suy nghĩ về nơi đó, đến khi mở mắt ra tôi có ở đó không. Lên giường ngủ, vào toilet, ngồi ăn cơm, rất nhiều lần tôi đã cố thử. Giờ thì tôi không làm vậy nữa.

Một chiếc quạt máy với 5 nút nhấn, tạo ra trò chơi gì? Rất buồn là, thứ đó đã thành một kí ức dai dẳng. Ba anh em tôi đã chơi trò lái máy bay với thứ quạt cũ kĩ đó, cùng một chiếc giường đơn loại dùng cho bệnh viện. Quạt là thứ động cơ duy nhất, còn chiếc giường là một trong phần tài sản ít ỏi mà cô chú tôi có sau khi cưới nhau. Thật ra đó chỉ là trò chơi, chẳng phải ước mơ gì to lớn, dễ dàng bị thay thế bởi nhiều điều. Bằng chứng là tôi chẳng thể nhớ kết thúc diễn ra thế nào.

Dạo gần đây, tôi thấy lạ với một chuyện, tại sao người ta nhớ được chi tiết tuổi thơ của mình đến vậy. Cho tôi đi chơi 5 ngày, thì đến ngày thứ 3 tôi đã quên mất ngày đầu. Đôi khi tôi thấy việc ngồi kể vanh vách chuyện thuở nhỏ khiến bạn nhìn như một kẻ đần độn và nông cạn. Đôi khi thôi nhé, vì sau đó, tôi lại nghĩ rằng sao mình không thể nhớ được gì. Có lẽ với người khác, tôi mới là kẻ thiếu thốn (cái gì đó thì không rõ). 

Có một thứ thú vị, chắc là sau cùng, mà tôi nhớ, là một câu thoại trong phim nào đó không thể biết: 'Lâu rồi chúng ta chưa hôn nhau dưới cầu thang.'

Thứ Sáu, 2 tháng 5, 2014

cấu trúc quần xã thuộc hệ sinh thái đô thị

Chúng tôi xin tiếp tục trình bày một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, trong vấn đề cấu trúc quần xã thuộc hệ sinh thái đô thị.

Quần xã là một tập hợp các loài có tương tác với nhau trong hệ sinh thái. Quần xã bị chi phối bởi các loài thực vật ưu thế khác nhau là các loại thảm thực vật (hoặc các loại hệ sinh thái), được xác định chủ yếu bởi khí hậu và thứ yếu bởi điều kiện đất đai (thổ nhưỡng). Lập bản đồ các biến thể vi khí hậu và các loại đất trong một không gian xanh đô thị là một bước quan trọng trong quy hoạch và thiết kế môi trường sống không đồng nhất hoặc sự đa dạng của các loại thảm thực vật trong khu vực đô thị. Sự thay đổi điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng, tình trạng ô nhiễm, hoạt động của con người diễn biến theo gradient đô thị - nông thôn. Ví dụ: hiệu ứng đảo nhiệt đô thị gia tăng khi đi sâu vào vùng lõi đô thị, tính thấm nước giảm dần từ nông thôn tới đô thị. Điều đó quy định sự thay đổi về phộ phong phú của loài trong quần xã. Loài bản địa giảm dần từ nông thôn đến vùng lõi đô thị, hoặc loài phi bản đại gia tăng trong một cấu trúc thảm thực vật không đổi (>3cm diameter at breast height, dbh).

Ví dụ như vấn đề mà các loài thực vật gặp phải trong không gian đô thị đã được Waynne C. Zipperer và Glenn R. Guntenspergen minh họa trong 2 đồ thị sau.


Các khu vực đô thị là vô cùng phong phú trong các loại thảm thực vật hoặc ổ sinh thái (Gilbert 1991, Sukopp và cộng sự 1995, Godde và cộng sự 1995, Wheater 1999, Boada và Capdevila 2000). Các loại thảm thực vật trong đô thị có thể chia một cách đơn giản thành 3 nhóm: (1) phần còn lại của quần xã tự nhiên, bị chi phối bởi thực vật bản địa; (2) nhóm cây trồng chịu ảnh hưởng bởi kĩ thuật làm vườn trong điều kiện đô thị; (3) quần xã thực vật thích nghi với điều kiện đô thị, không chịu tác động của con người.

-                      Cấu trúc chiều dọc.
Cấu trúc quần xã theo chiều dọc thường đề cập đến phân phối hoặc phân tầng của lớp thảm thực vật, chủ yếu được xác định bằng ánh sáng cường độ. Một khu rừng với tán, cây bụi, và thảo mộc lớp. Mỗi lớp có thể nhận được khoảng 10% ánh sáng mặt trời nhận được từng lớp ở trên nó. Sự phân bố thực vật theo tầng phụ thuộc vào tính ưa sáng hay ưa bóng của các loài khác nhau. Năng lượng mặt trời giảm nhanh qua các tầng tán lá. Động vật trong rừng có thực phẩm khác nhau và yêu cầu bao gồm và tương đối khác nhau trong mỗi lớp theo chiều dọc. Ngoài ra, gỗ chết đứng thân và chi nhánh là một môi trường sống quan trọng cho nhiều nhóm động vật. Trong duy trì đa dạng sinh học động vật, ví dụ như, trong một khu vực công viên bán tự nhiên, số lượng của lớp thảm thực vật thường được xem là sơ cấp và sự đa dạng của thực vật là thứ cấp. Sự mất mát tương đối của các cấu trúc quần xã theo chiều dọc là một cách hữu ích để đo đạc suy thoái môi trường sống.

-                      Cấu trúc chiều ngang.

Cấu trúc quần xã theo chiều ngang có thể được mô tả như thảm thực vật theo một gradient hay trong các patch. Như vậy, cấu trúc quần xã sinh vật ở đô thị có thể được phân tích theo gradient đô thị - nông thôn tổng quát (McDonell, 1997). Tuy nhiên, các thành phần như đá, đất và điều kiện nguồn nước tồn tại loang lổ, không đồng nhất với ranh giới thay đổi khá đột ngột. Điều kiện đó quy định các thảm thực vật có trạng thái chắp vá với nhau với đường ranh giới phân biệt. Trạng thái của các đường ranh giới giữa các thảm thực vật trong đô thị chịu ảnh hưởng bởi của con người. Thông thường các hoạt động của con người nhấn mạnh độ sắc nét của chúng.

-                      Cấu trúc loài – Loài bản địa và loài phi bản địa (native species & non-native species).
Các nhóm phân loại có số lượng lớn trong hệ sinh thái đô thị bao gồm thực vật, động vật không xương sống và chim. Theo Chi cục bảo vệ môi trường thành phố Hồ Chí Minh (2010), đa dạng sinh học ở thành phố Hồ Chí Minh được thống kê gồm có:
Thực vật bậc thấp - tảo : 555 loài
Thực vật thủy sinh và ven bờ  : 448oài
Thực vật bậc cao có mạch mọc hoang : 572 loài
Động vật không xương sống  : 654 loài
Lớp cá  : 171 loài
            Lớp lưỡng cư   : 14 loài
Lớp bò sát   :   60 loài
Lớp chim  : 140 loài
Lớp thú  :   41 loài
Loài phi bản địa là loài có nguồn gốc từ nơi khác, di chuyển đến và cư trú trong các ổ sinh thái ở đô thị theo quá trình động học metapopulation. Các loài phi bản địa có thể được coi là kẻ xâm chiếm. Ví dụ cho loài phi bản địa xâm chiếm thành công nhất vào các ổ sinh thái đô thị là côn trùng. Các loài phi bản địa còn có thể do con người mang đến trong quá trình du nhập các sinh vật thuần hóa. Những loài phi bản địa cạnh tranh và làm suy yếu các quần thể loài bản địa. Theo Reichard và White (2001), đa phần sự giới thiệu loài mới không ảnh hưởng lên hệ sinh thái, như 5% trong số các loài đó trở thành loài xâm chiếm, ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng của hệ sinh thái.

Quy hoạch, thiết kế, và quản lý không gian xanh không chỉ quan tâm về độ phong phú của loài, mà còn đặc biệt quan tâm đến thành phần loài (Zipperer và Foresman 1997). Đa dạng hoá cây xanh đường phố làm tăng sự đa dạng chim, với sự phong phú của gia cầm và thành phần loài phụ thuộc vào loài cây được sử dụng. Thay thế cây bản địa với cây phi bản địa có thể được dự kiến ​​sẽ giảm sự đa dạng chim.

-                      Mối quan hệ giữa các loài.
Các loài trong quần xã có mối quan hệ hỗ trợ và kìm hãm lẫn nhau trong quá trình sinh trưởng và phát triển. Một mối quan hệ nổi bật trong hệ sinh thái đô thị là mối quan hệ của sinh vật vector truyền bệnh với các loài khác. Vấn đề sức khỏe cộng đồng phụ thuộc vào tốc độ phát triển và phát tán của các vật trung gian truyền bệnh. Một số loài nổi bật trong lịch sử phát triển nhân loại là: chuột với bệnh dịch hạnh, muỗi với bệnh sốt xuất huyết…

Mối liên hệ giữa các loài tạo nên sự kiểm soát số lượng quần thể, kiểm soát sự phát triển của mỗi loài từ nhiều hướng khác nhau.

-                      Đa dạng loài kiểu alpha & beta. Sự đa dạng về loài trong hệ sinh thái đô thị bao gồm sự đa dạng cao trong ổ sinh thái đơn (alpha – diversity) và sự biến đổi giữa các quần xã trong các patch (beta – diversity). Sự đa dạng về loài trong hệ sinh thái đô thị là kết quả của sự phân mảnh môi trường đô thị, tạo ra sự đa dạng trong môi trường sống đô thị và là kết quả của sự xâm lấn bởi các loài ngoại lai vào đô thị. (Jari Niemela¨, D. Johan Kotze và Vesa Yli-Pelkonen)
Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu sơ lược một số luận điểm được trình bày trong cuốn sách của Richard T. T. Forman, 'Urban Regions - Ecology and planning beyond the city'.



Khái niệm greenspace (không gian mở, không gian xanh): là không gian không có các công trình xây dựng lớn trong khu vực đô thị. Bao gồm một số kiểu như các vùng đất ngập nước làm giảm dự trữ lũ lụt thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, hành lang cây cung cấp bóng râm mát vào mùa hè, khu vực trồng rau và trái cây ở gần một thành phố.

Khái niệm patch (mảnh ghép) và sự phân mảnh.
Patch ổ sinh thái (“miếng vá” ổ sinh thái) là một khu vực tự nhiên trong hệ thống đô thị, có khả năng làm ổ sinh thái (n chiều) cho một tập hợp các loài sinh sống. Kích thước, hình dạng của patch không giống nhau tùy từng trường hợp.


Biểu hiện nổi bật của sự phân mảnh ổ sinh thái bao gồm: giảm và cô lập các patch tự nhiên; thay đổi cấu trúc không gian của ổ sinh thái do xáo trộn có nguyên nhân ngoại lai dẫn đến các patch nhỏ không nằm xen kẽ với các ổ sinh thái khác; thay đổi cảnh quan gồm cả việc patch lớn bị chia thành các mảnh nhỏ; thảm thực vật ban đầu bị chuyển đổi thành dạng  thảm thực vật khác khiến các mảnh vỡ của dạng ban đầu nằm rải rác. Cảnh quan đô thị xét theo quan điểm sinh thái cảnh quan, là cảnh quan phân mảnh. Môi trường sống đô thị có sự phân mảnh. Sự phân mảnh trong môi trường sinh thái đô thị có nguồn gốc từ sự sắp xếp đất sử dụng. Các patch ổ sinh thái bị chia tách với nhau bởi một mạng lưới (matrix) các khu xây dựng và các thảm xanh không tự nhiên (non – native). Tính liên kết giữa các patch ổ sinh thái trong đô thị thường thấp và tùy thuộc vào khả năng di chuyển của loài. Tính chất phân mảnh của môi trường sống là cơ sở cho thành phần loài trong quần xã.

 Corridor: ổ sinh thái hành lang là một khu vực dạng đường thẳng, có khả năng liên kết các patch ổ sinh thái. Ổ sinh thái hành lang có thể tồn tại ở môi trường cạn hoặc môi trường nước. Hành lang này có thể liên tục hoặc không liên tục. Sự di chuyển giữa các patch ổ sinh thái cũng tùy thuộc vào loài. Như các loài chim với khả năng bay thường dễ di chuyển hơn giữa các patch trong đô thị. Còn một số loài động vật không xương sống nhỏ thường khó có thể vượt qua các rào chắn.




Mô hình patch – corridor – matrix và tính chất: Các ổ sinh thái và các vùng xây dựng tồn tại trong đô thị, tạo nên mô hình patch – corridor – matrix. Tính phân mảnh khiến các ổ sinh thái khác nhau ít được gắn kết, vi khí hậu của từng khu vực là khác nhau. Có thể quan sát thấy trong hình, các patch có kích thước khác nhau, các khu hành lang có thể gắn kết hoặc rời rạc, các patch nhỏ phân bố không đều. 

Patch lớn là cấu trúc duy nhất bảo vệ nguồn nước ngầm, bảo vệ các loài nội địa và cung cấp ổ sinh thái nòng cốt (core habitat), nhà sống cho các loài động vật có xương sống. Patch lớn hơn sẽ bao gồm nhiều ổ sinh thái hơn và như vậy sẽ góp phần làm gia tăng đa dạng sinh học. Kích thước nhỏ nhất của patch quy định những loại động vật và thực vật. Ví dụ, những loài chuột và thỏ cần kích thước nhỏ nhất của patch từ 1 đến 10 ha. Ngược lại, kích thước tối ưu của patch ở khu vực đường phân thủy dành cho cá hồi biển là 2500 ha. Tổng quát, sự bảo tồn từ 20 đến 60 % ổ sinh thái tự nhiên trong cảnh quan là cần thiết để duy trì đa dạng sinh học (Valentin 2004). Những kích cỡ nhỏ nhất hay tối ưu chịu ảnh hưởng bởi chất lượng của patch, phụ thuộc vào cấu trúc patch. 
Tỉ lệ rìa của patch ảnh hưởng đến thành phần loài. Tỉ lệ rìa tính bằng biểu thức:
                                    (Chu vi patch)/(2 x Diện tích patch1/2)

Rìa của patch gia tăng khi tính phân mảnh trong khu vực gia tăng. Khu vực rìa có điều kiện khác biệt so với bên trong patch. Ví dụ như bìa rừng thường nhận được nhiều ánh nắng hơn, nhiệt độ cao hơn và giá mạnh hơn so với rừng sâu. Tổ hợp các điều kiện vật lí thay đổi làm thay đổi ổ sinh thái đa diện. Thành phần loài thích nghi thay đổi theo sự thay đổi của ổ sinh thái. 

Ổ sinh thái hành lang cung cấp không gian cho các sinh vật di chuyển giữa các patch và có tác dụng bảo vệ nguồn nước. Những hành lang tự nhiên rộng được cho là tối ưu nhất cho các hệ thống trên cạn. Nhưng trong khu vực đô thị thì điều đó không khả thi, và bị thay đổi. Một dạng phổ biến trong đô thị là dạng một nhóm các patch nhỏ cung cấp các tuyến đường cho sự di chuyển, tạo thành một mảng tuyến tính tổng thể giữa xung quanh các bản vá lỗi lớn hơn. Đó được cho là cách bố trí không gian tối ưu, theo dạng các phiến đá để di chuyển (Dramstad, 1996). Tương tự, những hành lang ven sông được mong muốn và cung cấp nhiều lợi ích nhất tạo ra sự bền vững của bờ, chất lượng ổ sinh thái, nhiệt độ nước, và chất lượng của nước. 

Mô hình patch – corridor – matrix được ứng dụng vào việc tiếp tục bảo vệ các loài trong đô thị. Tập hợp của các patch lớn tự nhiên (a group of large natural patch) được xem là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Sau đó là nối kết các patch lớn với khu hành lang (greenway hay greenbelt).

 Học thuyết metapopulation. (Hanski 1998): Một metapopulation là một quần thể sinh vật được chia tách thành các nhóm nhỏ với sự di chuyển của các cá thể giữa các nhóm đó. Học thuyết metapopulation dùng để giải thích sự suy giảm của một loài với các subpopulation trong môi trường phân mảnh. Khi môi trường sống bị phân mảnh, quần thể loài bản địa tồn tại trước đó sẽ bị chia tách thành các subpopulation sống trong các patch, corridor khác nhau, có liên kết với nhau hoặc không. Sự tồn tại của subpopulation trong môi trường phân mảnh phụ thuộc vào đặc tính dạng, kích thước, tỉ lệ rìa, sự liên kết của ổ sinh thái trong không gian đó, tức là phụ thuộc vào đặc tính của các patch, corridor. Ví dụ một hệ thống nơi 1 patch lớn chứa 1 số lượng giới hạn các loài nhất định, thì 4 hay 5 patch là số lượng nhỏ nhất cần có để duy trì tính đa dạng về loài trong hệ thống (metapopulation) đó.


“A larger patch normally has a larger population size for a given species than a smaller patch, making it less likely that the species will go locally extinct in the larger patch.” (Dramstad et al. 1996, Plat P3)
Nguyên nhân dẫn đến suy giảm loài và tuyệt chủng loài tại địa phương gồm có:
-          sự suy giảm tính liên kết, gặp gỡ bắt cặp trong quần thể
-          giao phối gần dẫn đến suy giảm tỉ lệ gene dị hợp, tăng tỉ lệ cá thể đồng hợp.
-          tổ hợp điều kiện vật lí thay đổi dẫn đến thay đổi ổ sinh thái đa diện của loài.


Kết quả là sự suy giảm loài bản địa trong các ổ sinh thái và sự tuyệt chủng tại địa phương. Động học metapopulation mô tả quá trình tuyệt chủng ở địa phương của loài bản địa và tiếp theo là sự xâm nhập của các loài ngoại lai. Ví dụ, tại Berlin, tỷ lệ loài thực vật ngoại lai tăng từ 28% trong các khu vực ngoại thành đến 50% trong trung tâm thành phố (Sukopp 1979).

Thứ Năm, 10 tháng 4, 2014

1.

những người đàn ông vác mặt trời
và những người phụ nữ phơi mây
trở từng ngày hong đời óng ả
trên cánh đồng vàng chóa:
nằm lặng im giữa dòng sông lấp lóa
quẩn quanh tưới tắm rửa xóa thời gian
một ngàn năm chớp mắt một ngày.

những người đàn ông chạy việc giữa đồng mây
và những người phụ nữ làm lụng dưới mặt trời
đánh đảo cuộc đời tóc huyền bỏng trắng
giữa cánh đồng ngập nắng;
sục khoắng kiếm tuổi thơ
những đứa trẻ ước mơ là ngọn sóng.

những người đàn ông vác mặt trời suốt mùa đông
và những người đàn bà phơi mây chờ xuân chóng
lặng lẽ khóc cười tráo đổi buồn vui
bên cánh đồng vàng phới;
chờ mùa sau sẽ tới
lao động sẽ nghỉ ngơi.

những người đàn ông vác mặt trời cao vời vợi
và những người đàn bà phơi mây trước lối thiên đường
xốc xếp đoạn trường dạ lòng trở chuyển
cuối lối cánh đồng dẫn vòng khép kín;
yêu thương ngần ngại
vai trần gánh nặng ép vào tim.

những người đàn ông vác mặt trời xuống sông
và những người đàn bà gom mây phòng sương ướt
dắt díu quay về bỏ đồng xa khướt
ríu rắt nói cười suốt lối đường qua;
nước xuyên tim chợt hóa máu hồng.

những người đàn ông vác mặt trời
và những người phụ nữ phơi mây
quên tháng ngày và mất phút giây
làm việc trên cánh đồng vàng óng
trải rộng giữa dòng sông.








Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

nhật kí ngày số 1

In độc bản - Đông trên đồi Đà Lạt - 02/02/2014

Những kỉ niệm phải giấu đi thật lâu mới được lôi ra trở lại là những kỉ niệm khó quên. Đời sống là thứ bí ẩn nhất, lôi cuốn nhiều nhất và làm ta hãi hùng nhất. Người ta đi Đà Lạt để du lịch, thì chỉ thấy được cái mặt du lịch của nó thôi. Những con đường dốc đầy nắng thiêu, những hẻm sâu hút gió lạnh siết người và không có thức ăn, không sữa đậu nành, tiền cần phải tiết kiệm chứ không phải để ăn, chúng không phải là thứ mà tôi muốn nhớ. Nhưng chúng mới là kí ức, là đời sống mà tôi chứng kiến.

Thứ Ba, 28 tháng 1, 2014

dọn bụi

Bận bịu quá lâu nên nơi này bị bỏ quên. Giờ thì nhớ rồi. Blog này mình không type thường xuyên, vì đây không phải là nơi mình bày tỏ cảm xúc nhanh nhất, mà mình thì không kìm chế cũng như duy trì cảm xúc được lâu. Trong này chỉ có những điều thuộc về quá khứ, chứ không có hiện tại của mình. Mình đã nghĩ như vậy, mình đã trình bày như vậy: nhiều điều mình mong muốn. Còn giờ thì khác rồi.

Tính từ thời điểm mình viết nội dung cho entry gần nhất, chứ không phải mình public thì chắc cũng 2 năm. Dài quá. Đó đến nay đã có nhiều thay đổi và như vậy mình cảm thấy tốt hơn. Ngày xưa mình muốn làm khoa học, lí thuyết nhiều hơn thực chứng, nhưng có lẽ mình không có duyên bước vào thế giới đó và với việc đó. Người ta chỉ chăm vào thực nghiệm, thực chứng, giải quyết cái ngọn của vấn đề, không có mảnh đất của mình. Điều đó chỉ làm mình thêm bối rối, quằn quại và đau khổ. Vậy thì không cần phải tự làm khổ mình. Bye you forever!

2 năm qua, mình đã ngưng suy nghĩ và sẽ không suy nghĩ lại. Có một câu mà không giấc mơ mình đã thốt ra và cảm thấy tâm đắc: Tôi không đọc kinh thánh, tôi suy nghĩ về xã hội học - không phải lí thuyết dày và đúng đến kinh ngạc như kinh thánh của xã hội học mà là biểu hiện thực tế đời sống của những lí thuyết đó. Mỗi lí thuyết xã hội học là một kinh nghiệm đau đớn trong đời người.  Và mình chỉ là kẻ ngụp lặn trong đống kinh nghiệm đó. Kết thúc 1 giai đoạn, đôi khi bạn nhận ra là... bạn không làm được gì ngoài đóng vai kẻ mọt sách dù bạn làm mọt sách rất giỏi.

Giờ thì mình đã đi về một phương trời khác, mình kém hơn, mình vụng hơn, nhưng mỗi lần trăn trở đều là một lần mình thích thú nhiều hơn đọc sách và viết luận. Blog này không vì thế mà không được tiếp tục, mình vẫn còn nhiều thứ không muốn 'đến chết mang đi' và không việc gì phải hậm hực với quá khứ của chính mình.