Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

con đường của giấc mơ hay trạng thái đứa bé.

Có lẽ tôi đã bắt đầu mơ từ rất lâu, và cho đến bây giờ tôi vẫn chưa tỉnh lại. Những ngày tháng thật dài trôi đi, trôi quá tầm tay của tôi trong thực tế. Nhưng trong giấc mơ đời mình, tôi vẫn còn đủ khả năng để níu giữ mọi thứ.

Đôi khi, hình hài của tôi hiện ra rõ ràng là một đứa bé. Hay đó là cách tôi xuất hiện trong tâm trí của mọi người, tôi không biết chắc.

"Con ơi, cha đã quên trò chơi mê mải với cành que và chim đất.
Cha tìm đồ chơi quý và thu nhặt những thoi bạc nén vàng.
Tìm được gì, con cũng làm nên đồ chơi thích thú; còn cha bỏ cả thì giờ và sức lực tìm những của có bao giờ được đâu.
Trên thuyền mỏng manh, cha cố chèo chống mong vượt qua bể dục, mà quên rằng chính mình cũng đang diễn một trò chơi."
(Tagore)

Tôi thật sự thấy thích đoạn thơ của Tagore, vì khi tôi 18, tôi bỗng quay ngoắt trở lại thành một đứa trẻ (trong mắt thế gian). Sẽ có kẻ thầm ghen tị với tôi. Ngoài kia, người ta vẫn thường tự an ủi: "Năm nay là sinh nhật 18 tuổi lần thứ mười của mình."

Đứa trẻ cầm que chơi đùa, như nhạc trưởng thần thánh điều khiển thế giới. Đừng phạm lỗi bé ơi, chúa trời sẽ phạt em thành người lớn mất.

"Nếu bé muốn thì ngay bây giờ bé có thể bay lên tận trên trời.
Không phải tự nhiên mà bé không chịu rời bỏ chúng ta.
Bé thích đặt đầu mình vào trong lòng mẹ.
Và mắt bé không chịu rời xa mẹ bao giờ."
(Tagore)

Hạnh phúc không ở đâu xa mà ở ngay trước mắt. Đứa trẻ thấy, và đáng lẽ thế gian đều thấy. Mỗi ngày tôi đều tập nhìn. Nhìn gì và biết nhìn vào đâu?

Tôi nghĩ rằng tôi chỉ có thể nhìn vào giấc mơ. Mơ của tôi và mơ của người. Người nghiên cứu mơ vi khuẩn E. Coli.

Nhưng tôi không thật sự là một đứa bé nữa. Tôi chỉ là một người lớn níu giữ giấc mơ từ lúc còn bé. "Thực tế có thể không phải là sự thật, và sự thật không nhất thiết là cái xảy ra trong thực tế." Tôi đang làm gì?


Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2013

lí thuyết và lí thuyết

Chương thứ 7 của cuốn Sinh thái học đô thị (Olivier Coutard, Jean-Pierre Le1vy) viết về thủy văn đô thị. Sau những trình bày về bối cảnh, đặc thù, định hướng... của ngành này, có một điểm làm tôi chú ý hơn cả. Đó là "tính dễ bị tổn thương". Nó gợi lên trong đầu tôi nhiều suy nghĩ về tinh thần mà Sinh thái học/Sinh học đã mang tới (cho đời sống) và ảnh hưởng khắp hết các ngành "mang tính liên ngành" liên quan đến sự sống, thể hiện ở những tính chất quan trọng của hệ thống sống, chứ không phải chỉ ở các quá trình hay chức năng.


1, Tính dễ bị tổn thương

Các tác giả đã viết: "Tính dễ bị tổn thương của đô thị phụ thuộc vào đặc điểm vận hành và hoạt động của thành phố và bao gồm những vấn đề về mặt kĩ thuật, kinh thế và xã hội của thành phố." Nói về tính dễ bị tổn thương trong nội dung về thủy văn là sự đề cập hợp theo logic của các tác giả vì các nghiên cứu về tính dễ bị tổn thương trong nhiều thập niên gắn liền với lũ lụt và tác động của hiện tượng ấy.



Nói về tính dễ bị tổn thương, các nhà học học có nhiều quan điểm. "Theo Christian Kuhlicke quan niệm tính dễ bị tổn thương xuất phát từ một khái niệm về sự không hiểu biết có nghĩa là con người đối phó như thế nào với kiến thức hạn chế của mình." Joanne Linnerooth-Bayer định nghĩa: "Tổn thương là một thuật ngữ phân tích, Tính dễ bị tổn thương là khái niệm được hiểu trong một phạm vi rộng và có quy tắc, bao gồm cả địa lý, rủi ro, hiểm họa, kỹ thuật, nhân chủng học và sinh thái." Nhiều nhà khoa học khác đã phân tích ra rằng trong điều kiện tiếp xúc với một số căng thẳng hoặc khủng hoảng, tính dễ bị tổn thương có nguyên do không chỉ bởi tiếp xúc với sự nguy hiểm mà còn phụ thuộc vào khả năng đối phó của những người bị ảnh hưởng. Khả năng đối phó ấy (một lần nữa trong sự phân tích) là sự kết hợp giữa sức kháng cự (khả năng đối phó các tác động gây hại của mối nguy hiểm và tiếp tục tác động) cũng như khả năng phục hồi tổn thương một cách nhanh chóng.

Rõ ràng tính dễ bị tổn thương phản ánh ngay cho chúng ta một câu hỏi: có sống được hay không? Trước hết là sống, sau đó là phát triển. Tôi muốn nói lên ở đây rằng, trong thời điểm hiện nay, không chỉ các nhà khoa học mà cả những nhà chính trị, rất thích nói về "phát triển bền vững" như đó là tương lai ước mơ của nhân loại. Quay trở lại với nội dung ban đầu, trong những diễn giải trên, các nhà khoa học đã phân tích đến "khả năng đối phó của những người bị ảnh hưởng", "sức kháng cự" và "khả năng phục hồi tổn thương." Có thể thấy chúng đều nhằm vào con người. Trong các trường hợp khác, tôi lại hi vọng có thể xem xét cho các hệ thống sống vốn có chung đặc tính sinh học với con người và được con người hỗ trợ. Mà có lẽ sự thật đã là như thế rồi.

2, Tính đàn hồi và tính ổn định

Phần trên là đôi nét chính yếu nhất của tính dễ bị tổn thương. Điều trước hết mà tôi thấy được là nội dung trên trở thành hi vọng của con người trong việc giải quyết các nguy cơ bất ngờ. Thực tế hệ sinh thái bất kì nào cũng tồn tại với những nguy cơ, các loài sinh vật thành phần trong đó cũng phải tìm cách sống còn với những nguy cơ. Các lí thuyết của sinh thái học đã khắc họa gần như đầy đủ về cuộc sinh tồn đó. 

Đối với con người cũng có những điều tương tự. Một ví dụ dễ hiểu đã được trình bày trong "Giáo trình Sinh thái học người" (Nguyễn Hữu Nhân, Hoàng Quý Tỉnh): "Các xã hội ở bãi sông cấu trúc các hệ sinh thái đô thị và nông nghiệp một cách đặc trưng để giảm thiểu thiệt hại do lũ lụt, bởi vì các hệ xã hội phát triển củng với hệ sinh thái của bãi sông. Họ trồng trọt câu lương thực trên những diện tích sẽ không bị ngập nặng. Nếu học trồng lúa, học sử dụng các giống đặc biệt với đủ độ cao thân để giữ những bông lúa nằm trên mặt nước tránh cho mùa màng bị hư hại. Họ xây nhà cao để nước lũ chảy dưới ngôi nhà của họ. Họ dự trữ thực phẩm ở những nơi an toàn để không bị cạn lương thực khi lũ tàn phá mùa vụ; đồng thời họ có các thể chế xã hội để giúp đỡ các nạn nhân khắc phục những hư hại khi lũ lụt thàm khốc bất thường. Các cơn lũ vẫn có thể gây ra thiệt hại mặc dù đã có những sự thích nghi, nhưng thiệt hại hiếm khi nghiêm trọng. Ở Việt Nam hiện nay đã quen với câu "Sống chung với lũ". Điều này là thực tế của người dân một số nơi ở Đồng bằng sông Cửu Long khi lũ về họ có cơ hội được đón nhận lượng đất phù sa màu mỡ cho đất canh tác, có cơ hội cho việc tăng các nguồn lợi thủy sản như cá, tôm... Họ cũng sẵn sàng "sống chung" bằng cách thu xếp nơi ăn ở và các điều kiện sinh hoạt khác sao cho phù hợp và an toàn khi có lũ lớn về."

Ví dụ vừa nên cho thấy một khả năng ít bị tổn thương của cộng đồng người khi đã có đầy đủ sự hiểu biết, có cách kháng cự và phục hồi trong tất cả các mặt tự nhiên, kinh tế, xã hội: không thiệt hại vì có nguồn thu từ lũ, vì có sự bảo vệ trước sức mạnh của dòng lũ, vì có sự huy động của thể chế chính quyền... Không những chỉ ra thực tiễn ứng phó trước nguy cơ, ví dụ trên còn thể hiện cộng đồng ở bãi sông có tính đàn hồi. Các tác giả của cuốn Giáo trình cho biết: "Tính đàn hồi là khả năng tiếp thực thực hiện chức năng của một hệ sinh thái, hoặc hệ xã hội mặc dù có đôi lúc bị xáo trộn." Như vậy, có thể hiểu tính đàn hồi ám chỉ vào khả năng của bản thân hệ thống đang vận động.

tính đàn hồi cao - độ ổn định thấp; tính đàn hồi thấp - độ ổn định cao
Cũng các tác giả này, trong Giáo trình của họ, đã nhấn mạnh rằng tính đàn hồi luôn đi chung với độ ổn định: tính đàn hồi cao - độ ổn định thấp; tính đàn hồi thấp - độ ổn định cao. "Sự ổn định ngụ ý là sự vật luôn ở trong một trạng thái họa ít thay đổi." Hai giá trị này quan trọng ở chỗ chúng thể hiện hướng vận động mà các hệ thống sẽ phản ứng khi bị tác động.

3, Nguồn gốc và kết quả

Các chức năng của hệ sinh thái đã được phát biểu từ lâu, bao gồm: dòng năng lượng, chuỗi thức ăn, đặc trưng phân hóa theo không gian và thời gian, vòng tuần hoàn vật chất của các phần tử dinh dưỡng (vòng tuần hoàn sinh địa hóa), phát triển và tiến hóa, điều khiển. Tất cả các lí thuyết về các vấn đề trên đều được ứng dụng vào các ngành liên quan đến sinh thái, dễ thấy nhất là dòng năng lượng và vòng tuần hoàn vật chất. Còn lí thuyết đã được phân tích và áp dụng trong tìm hiểu trạng thái của hệ thống sống như phần trình bày bên trên, là lí thuyết về quá trình điều khiển của hệ sinh thái: phản hồi âm tính và phản hồi dương tính.

"Mọi hệ sinh thái và hệ xã hội loài người đều có nhiều vòng phản hồi âm tính và dương tính. Cả hai loại phản hồi này đều cần thiết cho sự tồn tại. Phản hồi âm tính tạo sự ổn định, nó duy trì các phần quan trọng của hệ thống trong các giới hạn cần thiết cho việc thực hiện chức năng hoàn chỉnh. Phản hồi dương tính tạo khả năng thay đổi mạnh mẽ khi cần." Chính sự phối hợp của các phản hồi mang tính điều khiển này đã tạo ra những vùng ổn định mang cả tính đàn hồi lẫn độ ổn định. Vùng ổn định thể hiện một phạm vi mà trong đó các quá trình diễn ra ăn khớp với nhau, có thể là vùng ổn định "sống" mà cũng có thể là vùng ổn định "chết".


Kết quả của mọi tác động thường do các phản hồi trong sự tự tổ chức nội tại quyết định. Hệ thống sống chịu tác động có thể quay về trạng thái ban đầu, trong vùng ổn định cũ, hoặc bị đưa sang một vùng ổn định mới. "Các hệ sinh thái và các hệ xã hội (các hệ thống hiếm khi thay đổi) sẽ dễ dàng chuyển sang một vùng ổn định khác khi các rối loạn bên ngoài buộc chúng phải thích nghi với thay đổi do sức chứa có hạn của mình."